Soạn bài: Bài 8 - Qua đèo ngang
ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
1. Qua đèo Ngưng là một bài thơ thất ngôn bát cú Dường luật. Bài thơ này có 8 câu mỗi câu bảy chữ, hợp vần ở chư cuối câu một và chữ cuối các câu chẵn (1, 2, 4, 6 và 8). Trong bài thơ, câu 3 đốì với câu 4, câu 5 đôi với câu 6. Nói cách khác, có phép đối ở bốn câu giữa.
2. Cảnh tượng đèo Ngang được miêu tả vào lúc xế tà (đã về chiều). Thời điểm này là thời điếm ngày sắp tàn. Đó chính là thời diêm dề gợi nỗi buồn cho lòng người. Ngay ở dân ca Việt Nam tư ngàn xưa cũng từng cho thấy:
- Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
- Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
Thời điểm xế tà là lợi thế đế tác giả bộc lộ tâm trạng cô đơn của mình lúc qua đèo.
3. Cảnh đèo Ngang được miêu tả gồm các chi tiết, cỏ, cây, hoa, lá, dãy núi, con sóng, cái chợ, mấy lúp nhà, có tiếng chim cuổc và chim da đa, có vài chú tiều (người đôn củi). Nhà thơ khéo dùng các từ láy lom khom, lác đác, các từ tượng thanh quốc quốc, gia gia đặc biệt gợi hình và gợi cảm.
4. Qua đèo Ngang là một bức tranh thiên nhiên có sự sống con người nhưng hoang sơ, núi đèo bát ngát, vắng lặng và buồn thể hiện một tâm trạng cô đơn, bâng khuâng, buồn nhớ của tác giả.
5. Khi qua đèo Ngang, Bà Huyện cảm thây cô đơn, hoài cổ, trong nỗi thương nước, nhớ nhà thâm đượm tâm hồn. Tâm trạng đó biểu hiện bằng tiếng chim cuốc nhớ nước, tiếng chim đa đa thương nhà da diết. Câu thơ cuốì bài biểu cảm trực tiếp càng làm nổi bật thêm tâm trạng cô đơn bâng khuâng buồn nhớ của tác giả.
6. Nói đến một mảnh tình riêng giữa cảnh trời, non, nước bao la ở đèo Ngang là thể hiện một tương quan đối lập: trời, non, nước càng bao la, cao rộng bao nhiêu thì mảnh tình riêng càng nặng nề u uất bấy nhiêu! Dĩ nhiên là khác với nói một mảnh tình riêng trong một không gian chật hẹp.