Soạn bài: Bài 3 - Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người

ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. a. Nhận xét về bài 1, em đồng ý với các ý kiến:

b. Bài ca dao có hai phần: phần đầu là câu hỏi của chàng trai, phần hai là lời đáp của cô gái.

c. Hình thức đốì đáp này có rất nhiều trong ca dao - dân ca.

Ví dụ:

-            Đố anh chi sắc hơn dao,

Chi sâu hơn bể, chi cao hơn trời?

-            Em ơi mắt sắc hơn dao,

Bụng sâu hơn bể, trán cao han trời.

-             Cái gì nó bé nó cay,

Cái gì nó bé nó hay cửa quyền?

-            Hạt tiêu nó bé nó cay

Đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền.

-            Em đố anh từ Nam chí Bắc

Sông nào là sông sâu nhất?

Núi nào là núi cao nhất nước ta?

Anh mà giảng được cho ra

Thì em kết nghĩa giao hòa cùng anh.

-            Sâu nhất là sông Bạch Đằng

Ba lần giặc đến ba lần giặc tan

Cao nhất là núi Lam Sơn

Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra.

2. Trong bài 1 chàng trai, cô gái lại hỏi - đáp về những địa danh với những đặc điểm (của từng địa danh) như vậy, vì họ muốn thử tài nhau, thử tài về kiến thức địa lí, lịch sử. Qua đó, cô gái cũng như chàng trai có dịp thăm dò sự hiểu biết, tri thông minh của người bạn để làm quen, bày tỏ tình cảm, kết thân.

Qua lời hỏi và lời đáp, có thể thây chàng trai và cô gái đều là những người lịch lãm, thông minh, sâu sắc, tế nhị. Họ có niềm tự hào, tình yêu đối với quê hương đất nước.

3. Trong bài 2, cụm từ “Rủ nhau" cho thây cả những người rủ và người được rủ đều tỏ ra thích thú muốn được tham quan cảnh đẹp Hồ Gươm. Đây là một thắng cảnh thiên nhiên, đồng thời là một di tích lịch sừ, văn hóa của đất nước ta.

Cách tả cảnh của bài ca dao này là gợi chứ không tả, chỉ cần nhắc lần lượt các địa danh: Kiếm Hồ, Thê Húc, Ngọc Sơn... Như thế cũng đủ cho người nghe cảm thấy háo hức, vì đó là những cảnh trí tiêu biểu của hồ Hoàn Kiếm.

Địa danh gắn liền với truyền thông đấu tranh (sự tích Hồ Gươm) dân tộc. Cảnh trí đa dạng có hồ, cầu, chùa, đền đài, tháp... tạo thành cảnh thiên nhiên thơ mộng của đất Thăng Long. Vì thê, địa danh và cảnh trí trong bài gợi lên niềm tự hào về đất nước, về lịch sử và vàn hóa.

“Hỏi ai gây dựng nên non nước này'?”

Câu hỏi cuối bài là lời nhắn nhủ nhắc chúng ta phải nhớ đến công lao xây dựng đất nước của các đấng tiền nhân. Câu hỏi còn nhắc chúng ta cùng các thế hệ mai sau phải biết tiếp tục xây dựng, giữ gìn đất nước cho xứng với truyền thống lịch sử, vân hóa nghìn đời của dân tộc.

4. Cảnh trí xứ Huế rất đẹp và thơ mộng. Đường vào “quanh quanh” uốn khúc, đây cỏ non, đó có nước quần tụ, làm nên một không gian mênh mông khoáng đạt. Non thì xanh, nước thì biếc, màu sắc ấy nhuộm cho Huế thêm tươi mát, êm đềm. Khung cảnh Huế sông động về đường nét, quyến rũ về màu sắc chẳng khác nào “tranh họa đồ" nên đã làm say đắm lòng người.

- Bài ca dao này dù có dùng định ngữ (quanh quanh), dùng biện pháp so sánh (như tranh họa đồ), nhưng chủ yếu vẫn là gợi hơn là tả. Tuy nhiên cảnh đẹp xứ Huế vẫn hiện lên thật sinh động.

- “Ai" trong lời mời, lời nhắn gửi “Ai vô xứ Huế thì vô” là một đại từ phiếm chỉ có nhiều nghĩa. Nó có thể chỉ một người hoặc nhiều người, có thể chỉ người mà tác giả bài ca dao trực tiếp nhắn gửi hoặc hướng tới người chưa quen biết.

Lời nhấn gửi trên ẩn chứa một niềm tự hào, lòng yêu mến cảnh đẹp xứ Huế, muốn được cùng nhiều người chia sẻ nỗi niềm ấy. Ngoài ra, biết đâu, lời mời đến thăm xứ Huế còn là cách bộc lộ tình cảm tinh tế và sâu sắc.

5. Hai dòng thơ đầu bài 4, khác dòng thơ bình thường, được kéo dài ra tới 12 tiếng, có sử dụng các điệp từ, đảo từ và đối xứng (đứng bên tê đồng - đứng bén ni đồng, mênh mông bát ngát - bát ngát mênh mông).

Cách sử dụng các câu thơ kéo dài như thế có tác dụng gợi lên sự dài rộng, to lớn của cánh đồng. Và các điệp từ, đảo từ cho thấy dù đứng ở góc độ nào cánh đồng vẫn bao la, mênh mông. Sự rộng lớn ấy và sự trù phú của cánh đồng báo hiệu một cuộc sống đầy hạnh phúc và tự tin.

6. Lúa đòng đòng là lúa sắp trổ bông; nắng hồng ban mai là nắng mới lên. Sự so sánh cô gái như “chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai” làm nổi bật hình ảnh một cô gái đương xuân, phơi phới, đầy sức sống.

Hai dòng đầu của bài ca dao miêu tả một cánh đồng bao la bát ngát. Trong hai dòng dưới, xuất hiện một cô thôn nữ đã mảnh mai dường như còn mảnh mai hơn. Nhưng sự phì nhiêu của cả cánh đồng “mênh mông bát ngát - bát ngát mênh mông” kia là có một phần công sức của đôi tay nhỏ bé của cô gái. Câu thơ gợi lên một hình ảnh rất đẹp: đứng giữa trời đất, đôi mắt cô gái sáng lên niềm tự hào, đôi môi cô nở nụ cười sung sướng trước khi những thành quả lao động của mình đang dàn trải ra trước mặt.

7. Bài 4 là lời của chàng trai. Người ấy thấy cánh đồng thật là mênh mông bát ngát và thây cô gái mảnh mai với vẻ đẹp đương xuân đầy sức sống. Chàng trai đã ngợi ca cánh đồng, ngợi ca vẻ đẹp cô gái và qua đó bày tỏ tình cảm của mình một cách tế nhị đối với cô gái.

Bài ca dao này có thế hiểu một cách khác: Đây là lời của một cô gái. Đứng trước cái mênh mông của cánh đồng, cô gái nghĩ về thân phận mình như “chẽn lúa đòng đòng. Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”, đẹp thì có đẹp nhưng sớm nở tối tàn, rồi sẽ ra sao trước cái biển lúa khổng lồ? Từ “phất phờ” bộc lộ rõ tâm trạng lo lắng này. Và nỗi lo đó cũng giông như nỗi lo của cô gái trong bài ca dao:

“Thân em như dải lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”

(Các em cũng có thể còn nhiều cách hiểu khác. Điều quan trọng là phải lí giải được cách hiếu của mình sao cho phù hợp với lời bài ca dao).

LUYỆN TẬP

1. Thể thơ trong bốn bài ca dao: Ngoài thể thơ lục bát, chùm bài ca dao này còn sử dụng:

- Thể lục bát biến thể: Bài số 1, số tiếng không phải là 6 ở dòng lục, không phải là 8 ở dòng bát như thường thấy.

- Thể thơ tự do: Bài 4, hai dòng đầu có số chữ quá dài.

2. Tình cảm chung thế hiện bốn bài ca dao là tình yêu quê hương, đất nước, con người.

Viết bình luận