Soạn bài: Bài 1 - Liên kết trong văn bản

I. LIÊN KẾT VÀ PHƯƠNG TIỆN LIÊN KẾT TRONG VĂN BẢN

1. Tính liên kết của văn bản

a) Nếu bố En-ri-cô chỉ viết mấy câu sau, thì En-ri-cô khó có thể hiểu rõ điều bố muốn nói:

Trước mặt cô giáo, con đã thiếu lễ độ với mẹ. Bố nhớ, cách dây mấy năm, mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con! Hãy nghĩ xem, En-ri-cô à! Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn, người mẹ có thể đi ăn xin dể nuôi con, có thể hi sinh tính mạng dể cứu sống con! Thôi, trong một thời gian con đừng hôn bố.

b) Lí do En-ri-cô chưa hiểu ý bố: vì giữa các câu còn chưa có sự liên kết.

c) Vậy, muốn cho đoạn văn có thể hiểu được thì các câu văn trong đó phải có sự liên kết.

2. Phương tiện liên kết trong văn bản

a) Đoạn vãn trở nên khó hiểu về nội dung giữa các câu chưa có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Đoạn văn có thể sửa lại như sau:

Trước mặt cô giáo, con đã thiếu lễ độ với mẹ. Việc như thế không bao giờ con được tái phạm nữa. Con phải nhớ rằng mẹ là người rất yêu thương con. Bố nhớ, cách đây mấy năm, mẹ đã phải thức suốt đêm, cúi mình trên chiếc nôi trông chừng hơi thở hổn hển của con, quằn quại vì nỗi lo sợ, khóc nức nở khi nghĩ rằng có thể mất con! Hãy nghĩ xem, En-rì-cô à! Người mẹ sẵn sàng bỏ hết một năm hạnh phúc để tránh cho con một giờ đau đớn, người mẹ có thể di án xin để nuôi con, có thể hi sinh tinh mạng để cứu sống con! Nhớ lại diều con làm, bố rất giận con. Con phải xin lỗi mẹ. Thôi, trong một thời gian con đừng hôn bố: bố sẽ không thể vui lòng đáp lại cái hôn của con được.

b) Đoạn văn sau thiếu sự liên kết, vì giữa các câu không có các phương tiện ngôn ngữ để kết nối:

Một ngày kia, còn xa lắm, ngày đó con sẽ biết thế nào là không ngủ được. Giấc ngủ đến với con dễ dàng như uống một li sữa, ăn một cái kẹo. Gương mặt thanh thoát của đứa trẻ tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé nở và thỉnh thoảng chúm lại như đang mút kẹo.

Đoạn văn trên có thể sửa lại bằng cách thêm vào các phương tiện ngôn ngữ như sau:

Một ngày kia, còn xa lắm, ngày đó con sẽ biết thế nào là không ngủ được. Còn bây giờ, giấc ngủ đến với con dễ dàng như uống một li sữa, ăn một cái kẹo. Gương mặt thanh thoát của con tựa nghiêng trên gối mềm, đôi môi hé nở và thinh thoảng chúm lại như đang mút kẹo.

c. Từ hai ví dụ trên, chúng ta nhận thấy: Để một văn bản có tính liên kết, trước hết nội dung của các câu phải gắn bó chặt chẽ với nhau và các câu trong văn bản phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ liên kết một cách thích hợp.

II. LUYỆN TẬP

1. Những câu văn được sắp xếp theo một thứ tự hợp lí như sau:

(1)Một quan chức của thành phố đã kết thúc buổi lễ phát thưởng như sau: “Ra khỏi đây, các con ạ, các con không được quên gửi một cái chào và một lời cảm ơn đến những người đã vì các con mà không quản mệt nhọc, những người đã hiến cả trí thông minh và lòng dũng cảm cho các con, những người sống và chết vì các con, và họ đây này!” (2) và ông đưa tay chỉ về phía các thầy giáo, cô giáo ngồi trên hành lang. (5) Nghe lời kêu gọi cảm dộng, đáp ứng đúng những tinh cảm của mình, tắt cả học sinh đều đứng dậy, dang tay về phía các thầy, các cô. (3) Các thầy, các cô đều dứng dậy vẫy mũ, vẫy khăn đáp lại, tất cả đều xúc động về sự biểu lộ lòng mến yêu ấy của học sình.

2. Các câu văn dưới đây, về mặt hình thức có vẻ “liên kết” do sử dụng các phương tiện ngôn ngữ trùng lặp, nhưng thật ra chưa có sự liên kết nào, vì nội dung các câu chưa có sự gắn bó chặt chẽ thống nhất với nhau.

3. Những từ ngữ được điền vào đoạn văn như sau (từ ngữ in đậm)

Bà ơi! Cháu thường về đây, ra vườn, đứng dưới gốc na, gốc ổi mong tìm lại hình bóng của bà và nhớ lại ngày nào bà thường trồng cây cháu chạy lon ton bên bà. Bà bảo khi nào cây có quả, bà sẽ dành quả to nhắt, ngon nhất cho cháu, nhưng cháu lại bảo quả to nhất, ngon nhất phải để phần bà. Thể là bà ôm cháu vào lòng, hôn cháu một cái thật kêu.

4. “Đêm nay mẹ không ngủ được. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con”.

Hai câu vãn trên, nếu tách khỏi các câu khác trong văn bản thì nội dung ý nghĩa không liên kết nhau, vì câu trưởc chỉ nói về mẹ và câu sau chỉ nói về con. Nhưng tiếp theo hai câu trên còn có câu: “Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng rồi buông tay mà nói...”. Câu này đề cập cả mẹ và con, có nội dung liên kết với cả hai câu trên. Nhờ thế, trong đoạn văn, cả ba câu trên vẫn liên kết nhau thành một thể thông nhất. Cho nên sự sửa chữa là không cần thiết.

5. Trong câu chuyện Cây tre trăm đốt, nếu như chỉ có trăm đốt tre mà không nhờ đến phép màu của Bụt thì không sao thành cây tre được. Câu chuyện ấy đã giúp em hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của sự liên kết, không thể có vãn bản nếu các câu văn không nốì liền nhau.

Viết bình luận