Soạn bài: Tuần 9 - Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Khái niệm ca dao

Ca dao là những bài hát dân gian. Khái niệm này đặt ca dao vào đúng môi trường diễn xướng, nghĩa là khi ấy, lời thơ và làn điệu của ca dao gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhưng nếu ta tách khỏi điệu hát thì ca dao là thơ và vì vậy ca dao còn có nghĩa là một thể thơ dân gian.

Khi sưu tầm, các nhà nghiên cứu thường chỉ ghi chép phần lời thơ. Vì vậy, khi học chúng ta cũng chí chú ý nhiều đến phần văn tự.

2. Đặc điểm của ca dao

Về nội dung, ca dao phản ánh tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của người lao động. Nó thường được biểu hiện thành: những câu hát than thân, những câu hát yêu thương tình nghĩa, những tiếng cười trào lộng, châm biếm,...

Về nghệ thuật, ca dao là sáng tác tập thể, vì vậy nó kết tinh nghệ thuật ngôn từ của nhân dân. Nó có những đặc trưng riêng về thể thơ, kết cấu... (ví dụ phần lớn ca dao được sáng tác theo thể lục bát; ca dao sử dụng lối so sánh ví von, lặp đi lặp lại các hình ảnh giàu tính nghệ thuật, hoặc diễn đạt theo kiểu công thức,...).

II - HƯỚNG DẪN ĐỌC - HlỂU VĂN BẢN

1. Chùm ca dao trữ tình gồm hai nội dung lớn được chia ra cụ thể thành các nhóm bài sau.

- Nội dung than thân: bài 1, 2, 3 đều nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.

- Nội dung yêu thương tình nghĩa:

+ Bài 4, 5: Thể hiện nỗi nhớ và niềm ước ao mãnh liệt trong tình yêu đôi lứa.

+ Bài 6: Là câu hát về tình nghĩa thuỷ chung của con người (nhất là trong tình yêu và tình chồng vợ).

2. Về các bài 1,2

a) Hai lời than thân đều có hình thức mở đầu là cụm từ "Thân em như,..." kèm theo một âm điệu ngậm ngùi, xa xót. Có thể xác định đây là lời than của những cô gái đang đến độ xuân thì. Tuy có phẩm chất đẹp thế nhưng vẻ đẹp ấy lại không được nâng niu và trân trọng. Họ không thể tự quyết định được tương lai và hạnh phúc của mình. Họ khát khao và chờ mong nhưng vẫn phải gửi cuộc sống của mình cho số phận.

b) Cả hai bài ca dao tuy đều nói đến thân phận chìm nổi lênh đênh, thiệt thòi của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thế nhưng mỗi bài lại có một sắc thái tình cảm riêng:

- Bài 1: Người phụ nữ ý thức được tuổi xuân và vẻ đẹp của mình ("như tấm lụa đào"). Nhưng thân phận lại thật xót xa khi không thể tự quyết định được tương lai của chính mình ("Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?"). Nỗi đau và cũng là bi kịch của nhân vật ở chỗ vừa bước vào tuổi xuân đầy mơ ước thì nỗi lo về thân phận lại ngay lập tức đe doạ họ, làm cho họ cảm thấy chơi vơi, mất phương hướng trước cuộc đời.

- Bài 2: Đây là lời khẳng định phẩm chất và vẻ đẹp đích thực của người con gái ("Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen"). Bài ca còn là lời mời mọc da diết của cô gái. Lời mời mọc ấy là khát khao của con người mong muốn được khẳng định cái chân giá trị, cái vẻ đẹp của mình. Tư tưởng của bài ca dao vẫn là nỗi ngậrn ngùi chua xót cho thân phận của người con gái trong xã hội xưa.

3. Về bài 3

a) Trong ca dao, mô tip dùng từ "Ai" để chỉ các thế lực ép gả hay cản ngăn tình yêu nam nữ xuất hiện nhiều lần, ví như:

- Ai làm cho bướm lìa hoa

Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng.

- Ai làm bầu bí đứt dây

Chàng nam thiếp bắc gió tây lạnh lùng

Ở bài ca dao này từ "Ai" cũng mang nghĩa như vậy. "Ai" ở đây có thể là cha mẹ, là những hủ tục cưới cheo phong kiến hay có khi là chính người tình.

b) Mặc dầu lỡ duyên, nhưng tình nghĩa vẫn bền vững, sắt son. Cái tình ấy được nói lên bằng những hình ảnh so sánh ẩn dụ (mặt trăng, mặt trời, sao Hôm, sao Mai). Điểm đặc biệt của những hình ảnh nghệ thuật này là tính bền vững, không thay đổi trong quy luật hoạt động của nó. Lấy cái bất biến của vũ trụ, của thiên nhiên để khẳng định cái tình thuỷ chung son sắt của lòng người chính là chủ ý của tác giả dân gian.

c) Sao Vượt là tên cổ của sao Hôm. Nó thường mọc sớm vào buổi chiều, lên đến đinh của bầu trời thì trăng mới mọc. Vì thế câu thơ cuối "Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời" như là một lời khẳng định về tình nghĩa thuỷ chung son sắt và ý chí quyết tâm vượt qua những rào cản của tình yêu. Câu thơ là một lời nhắn nhủ với bạn tình, đồng thời cũng là một khát khao mong tình yêu có thể cập đến bến bờ hạnh phúc.

4. Về bài 4

Bài ca dao này diễn tả một cách thật cụ thể, tinh tế và gợi cảm tình cảm thương nhớ của người đang yêu, bằng các hình tượng nghệ thuật gần gũi: khăn, đèn, mắt.

Nếu hình tượng khăn, đèn được xây dựng bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa. (khăn, đèn chính là cô gái), thì hình ảnh mắt được xây dựng bằng phép hoán dụ (dùng bộ phận để chỉ toàn thế - nhân vật trữ tình). Hình ảnh khăn, đèn, mắt đã trở thành biểu tượng cho trái tim đang thương nhớ người yêu của cô gái.

Chi tiết chiếc khăn được nhắc lại nhiều lần, bởi nó thường là vật kỉ niệm, vật trao duyên. Nó lại luôn luôn ở bên mình người con gái. Chính vì thế mà nó có thể cất lên lời tâm sự thay cho nhân vật trữ tình. Hình ảnh chiếc khăn gắn với các động từ như: thương nhớ, rơi xuống, vắt lèn, chùi nước mắt,... nói lên tâm trạng ngổn ngang trăm mối của người con gái.

Nỗi nhớ thương của cô gái còn thể hiện qua hình ảnh ngọn đèn - đó là nỗi nhớ được trải dài ra theo nhịp thời gian. Đèn chẳng tắt hay chính là ngọn lửa tình trong lòng cô gái đang thắp sáng suốt đêm thâu.

Từ hình ảnh khán, đèn đến hình ảnh ánh mắt là cả một sự đổi thay rất lớn, từ tâm trạng triền miên, da diết sang khắc khoải, ngổn ngang. Đến đây, cô gái đã đối diện với lòng mình và tự hỏi: "Mắt thương nhớ ai". Hình tượng thơ vẫn liền mạch thống nhất về ý nghĩa. Các câu hỏi vẫn cứ được cất lên. Và câu trả lời lại ở trong niềm thương nỗi nhớ của người con gái.

5. Trong ca dao tình yêu, chiếc cầu là một mô tip rất quen thuộc. Nó là biểu tượng để chỉ nơi gặp gỡ, trao duyên của những đôi lứa đang yêu. Chiếc cầu thường mang tính ước lệ độc đáo - là cành hồng,ngọn mồng tơi,... và ở đây là dải yếm. Con sông đã không có thực (rộng một gang) nên chiếc cầu kia cũng không có thực. Nó thực ra là một "cái cầu tình yêu". Bài ca dao còn độc đáo hơn ở chỗ nó là chiếc cầu do người con gái bắc cho người yêu mình. Nó chủ động, táo bạo, mãnh liệt nhưng cũng trữ tình và ý nhị biết bao. Chiếc cầu ở đây được làm bằng vật thuộc về chủ thể trữ tình (khác với cành hồng, cành trầm, ngọn mồng tơi,... những vạt ở bên ngoài chủ thể). Vì thế mà chiếc cầu - dải yếm như là một thông điệp tượng trưng cho trái tim rạo rực yêu thương mà người con gái muốn mời gọi, dâng hiến cho người yêu của mình.

Xem thêm một số câu ca dao về chiếc cầu dưới đây:

- Hai ta cách một con sông

Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang.

- Cách nhau có một con đầm

Muốn sang anh bẻ cành trầm cho sang.

Cành trầm lá dọc lá ngang

Đố người bên ấy bước sang cành trầm.

- Gần đây mà chẳng sang chơi

Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu.

Sợ rằng chàng chả đi cầu

Cho tốn công thợ, cho sầu lòng em...

Gợi ý phân tích ý nghĩa sắc thái của các câu ca dao:

Hai bài ca dao trên đều là lời mời gọi của nhân vật trữ tình. Nó có hình thức giống như những câu hát giao duyên. Hai câu ca dao tuy khác nhau ở hình ảnh "chiếc cầu” (cành hồng, cành trầm) nhưng đều có giá trị thẩm mĩ cao.

Ớ bài ca dao dưới, hình ảnh chiếc cầu vẫn rất gần gũi và giản dị (ngọn mồng tơi) nhưng nội dung cả bài lại mang hàm ý là lời trách móc, hờn dỗi nhẹ nhàng của cô gái hướng đến chàng trai (người ở phía bên kia).

6. Bài 6 là câu hát về tình nghĩa thuỷ chung của người bình dân trong ca dao. Ở đây, để biểu đạt nội dung ý nghĩa, tác giả dân gian đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ quen thuộc mang tính truyền thống của ca dao (gừng cay - muối mặn).

- Muốigừng là hai hình ảnh nghệ thuật cũng được xây dựng từ những hình ảnh có thực trong đời sống (những gia vị trong bữa ăn). Gùng có vị cay nồng nhung thơm, muối có vị mặn đậm đà. Từ hai ý nghĩa ấy, gùng và muối đã được chọn để biểu trưng cho hương vị của tình người trong cuộc sống - tình nghĩa thuỷ chung gắn bó sắt son.

Bài ca dao là câu hát về tình nghĩa thuỷ chung nhung nó hướng nhiều hơn đến tình nghĩa vợ chồng - những người đã từng chung sống với nhau, từng cùng nhau trải qua nhũng ngày tháng gừng cay - muối mặn. Bài ca dao được viết bằng thể thơ song thất lục bát nhung câu bát phá cách ("Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa") kéo dài tới mười ba tiếng như là một sự luyến láy vừa tạo ra tính nhạc cho câu, vừa khẳng định cái giá trị bền vững không phai của tình nghĩa vợ chồng.

7. Những biện pháp nghệ thuật mà ca dao thường sử dụng là:

- Sự lặp đi lặp lại của mô thức mở đầu: Thân em như...

- Những hình ảnh (mô tip) đã trở thành biểu tượng: cái cầu, khăn, đèn, gừng cay - muối mặn...

- Những hình ảnh so sánh, ẩn dụ: lụa đào, củ ấu gai,...

- Các mô tip thời gian li biệt, không gian xa xôi cách trở.

- Thể thơ: lục bát - lục bát biến thể, vãn bốn (4 chữ), song thất lục bát (có cả biến thể).

Những biện pháp nghệ thuật này có nét riêng so với nghệ thuật thơ của vẫn học viết: nó mang nhiều dấu ấn của cộng đồng. Những dấu hiệu nghệ thuật này đều quen thuộc, dễ nhận ra. Trong khi đó nghệ thuật thơ của văn học viết thường mang dấu ấn riêng của người nghệ sĩ - dấu ấn đặc trưng của từng tác giả.

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Có thể kể ra các bài ca dao mở đầu bằng "Thân em như...":

- Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

- Thân em như hạt mưa rào,

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

- Thân em như trái bần trôi,

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đàu.

- Thân em như miếng cau khô,

Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày.

- Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

Gợi ý phân tích sắc thái ý nghĩa của các bài ca dao:

- Hai bài đầu sử dụng cùng một hình ảnh so sánh: thân em - hạt mưa, để nói lên nỗi khổ của cô gái khi số phận của mình (buồn - vui, sướng - khổ) chỉ có thê trông nhờ vào sự may mắn mà thôi.

- Bài thứ ba nói lên thân phận nhỏ bé tội nghiệp của người phụ nữ trước những phong ba, bão táp của cuộc đời.

- Hai câu cuối là lời than của người phụ nữ khi giá trị và vẻ đẹp của họ không được người đời quan tâm và trân trọng.

2. Một số bài ca dao về nỗi nhớ người yêu và về cái khăn:

- Nhớ ai như nhớ thuốc lào,

Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.

- Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?

- Đêm qua ra đứng bờ ao,

Trông cá cá lặn trông sao sao mờ.

Buồn trông con nhện giăng tơ,

Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai.

Buồn trông chênh chếch sao Mai,

Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ.

- Gửi khăn, gửi áo, gửi lời,

Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa.

- Nhớ khi khăn mở trầu trao,

Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình.

Bài ca dao Khăn thương nhớ ai tuy vẫn nằm trong hệ thống các bài ca dao thương nhớ trên đây nhưng nó vẫn có điểm riêng: Nỗi nhớ trong bài ca dao này vừa cụ thể, sinh động lại vừa tổng hợp khái quát, nhiều cung bậc. Chính vì vậy, bài ca dao có sức cuốn hút và hấp dẫn. Càu thơ của Nguyễn Khoa Điềm "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" vừa lấy ý tứ từ sự thương nhớ của ca dao vừa khái quát lên một cấp độ cao hơn - câu thơ chính là một nét đẹp giản dị mà tinh tế, sâu sắc của tâm hồn người Việt.

Viết bình luận