Soạn bài: Bài 6 - Chị em Thúy Kiều
I. VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH
Đoạn trích thuộc phần mở đầu Truyện Kiều, giới thiệu gia cảnh Vương viên ngoại. Đó là một gia đình thường thường bậc trung, có ba người con. Con trai là Vương Quan và hai cô con gái là chị em Thúy Kiều. Bốn câu trước đoạn trích này nói về gia đình họ Vương và con trai út Vương Quan. Từ câu 15 đến câu 38 (24 câu) là đoạn trích Chị em Thúy Kiều nói về Thúy Vân, Thúy Kiều.
II. BỐ CỤC
a) Bốn câu đầu: Khái quát về ngoại hình và cốt cách hai chị em Thúy Kiều.
b) Bốn câu tiếp: Vẻ đẹp Thúy Vân.
c) Mười sáu câu còn lại: Vẻ đẹp Thúy Kiều.
III. PHÂN TÍCH (ĐỌC HIỂU VĂN BẢN)
1) Đoạn trích có một kết cấu chặt chẽ thể hiện rõ ràng trình tự miêu tả nhân vật của tác giả:
- Giới thiệu khái quát.
- Tả Thúy Vân làm nền để tả Thúy Kiều.
- Cực tả tài sắc toàn vẹn, hiếm có của Thúy Kiều.
2) Vẻ đẹp của Thúy Vân:
Trước tiên, tác giả giới thiệu khái quát hai chị em Thúy Kiều - chỉ với một câu thơ: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” ông đã khái quát được vẻ đẹp chung ai cũng toàn vẹn hoàn thiện, hoàn mĩ (mười phân vẹn mười) tuy là mỗi người có một vẻ đẹp riêng (mỗi người một vẻ).
Để làm công việc đó, tác giả dùng bút pháp ước lệ, tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên (mây, tuyết) làm chuẩn mực để gián tiếp so sánh với vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều.
Bốn câu tiếp theo, Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân.
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Ngòi bút thơ của Nguyễn Du làm hiện lên từ khuôn mặt, nét mày, màu da, mái tóc đến nụ cười một cô gái xinh đẹp, thùy mị, đoan trang, phúc hậu tròn trịa và khiêm nhường. Biện pháp tu từ ẩn dụ ước lệ, đặc biệt là các từ trang trọng, đầy đặn, đoan trang, thua, nhường đã phác họa được vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân và nhất là đã ngầm dự báo một tương lai sáng sủa của nàng.
3) Vẻ đẹp của Thúy Kiều
Tả em trước, tả chị sau, Nguyền Du có dụng ý mượn tài sắc Thúy Vân làm điểm tựa đòn bẩy đẩy tài sắc Thúy Kiều lên đến chỗ tuyệt vời. So với em, chị đều hơn cả mọi phần cả sắc lẫn tài:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều ẩn chứa trong đôi mắt:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn”
Ánh mắt trong xanh như làn nước mùa thu. Lông mày xinh tươi như vẻ núi mùa xuân. Nhan sắc đó làm cho hoa liễu phải hờn ghen:
“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”
Vẻ đẹp của Thúy Kiều làm cho tạo hóa phải ghét lây, các vẻ đẹp khác phải đố kị như hoa ghen, liễu hờn ngầm dự báo số phận nàng sẽ éo le đau khổ.
Không chỉ có thừa nhan sắc, Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh và tài hoa rất mực:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
Đủ tài “cầm kì thi họa” Kiều còn đánh đàn giỏi mà tuyệt xảo lại là khúc bạc mệnh mà nàng đã tự soạn ra:
“Cung thương làu bực ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ Cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”
Bằng lối tu từ ẩn dụ, ước lệ, thậm xưng, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tuyệt tác về sắc đẹp lộng lẫy diệu kì của Thúy Kiều, vẻ đẹp đó như dự báo tương lai của người con gái này sẽ không bình yên như Thúy Vân, em nàng.
Tác giả chỉ dành bốn câu để Thúy Vân so với 12 câu sau đó để cực tả vẻ đẹp của Thúy Kiều. Tả Thúy Vân, tác giả chủ yếu tả ngoại hình. Còn tả Thúy Kiều, ông tả cả sắc, tài và tình đầy đủ.
Qua đoạn trích này, Nguyễn Du đã hết sức trân trọng đề cao vẻ đẹp của con người, một vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ. Đây chính là một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo, nhân văn ở Truyện Kiều.
Ghi nhớ: (Sách giáo khoa) Bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển thường lấy vẻ đẹp của thiên nhiên gợi tả về vẻ đẹp của con người. Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của con người là một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân văn. |