Soạn bài: Viết bài làm văn số 6: Nghị luận văn học (bài làm ở nhà)

Đề 1

Anh (chị) câm nhận được gì về nhân vật ông lái đò trong bài Người lái đò Sông Đà và phong cách nghệ thuật văn xuôi Nguyễn Tuân.

Đề 2

Tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân được thể hiện như thế nào trong chương Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khảt vọng).

Để 3

Phân tích hình tượng Sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh.

Đề: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh.

Bài tham khảo

Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mĩ, Xuân Quỳnh nôi lên như một tiếng thơ trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đâu anh hùng của con người Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh còn thế hiện được cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điếm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tình yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhác đến những bài nổi tiếng: Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu, Tự. hát... và nhất là Sóng - bài này được rút ra từ tập Hoa dọc chiến hào. Có thế nói, Sóng đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ này.

Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm diệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó.

Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuôn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiêm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hòa điệu nhuần nhụy giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tinh chât của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lí do ấy mà khi đọc thơ, điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó.

Đọc bài thơ Sóng, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng, nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ dã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hồn người tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?

Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biên hóa phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ đế’ tạo ra nhịp sông. Nói riêng khổ thơ' đầu, hai câu -đầu đi nhịp 2/3:

Dữ dội / và dịu êm

Ôn ào/ và lặng lẽ.

thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cầu kì hơn là 1/2/2):

Sóng / không hiểu/nổi mình

Sóng / lìm ra / tận bể.

Nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hóa không ngừng.

Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt đề tận dụng lối tồ’ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đắp đối nhau về bằng trắc nữa. vế tiếp vế, câu tiếp câu. ơ đây vừa “dữ dội và dịu êm” - “ồn ào và lặng lẽ”, ngay đó đã là: “Ôi con sóng ngàỳ xưa - và ngày sau vẫn thế”... cứ thế:

- Em nghi về em, anh

Em nghĩ về biển lớn

- Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

- Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam.

Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lặn xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biên, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gốì đầu lên nhau, xô đuổi nhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu.

Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đôi diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ỏ trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vi thế mà sóng là hóa thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hòa nhập, chuyến hóa sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thế khẳng định Sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh.

Mỗi một khố thơ là một khám phá về sóng, ở mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác. Cho nên không thế lược quy riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bắt hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chỉ có thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi.

Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rát đặc biệt: sóng mang nữ tính. Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thây sóng biến là một chàng trai đang yêu bờ đắm đuôi cuồng nhiệt. Còn nữ sĩ Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của người phụ nữ. Có phải nhà thơ trữ tình thường có thiên hướng áp đặt cái tôi của mình vào đốì tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sóng không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể.

Trong khí chất của sóng, thấy có sự hài hòa của các đối cực. Vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhát vừa lặng lẽ nhất. Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn. Và đó là khu vực về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt. Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện “Sông không hiểu nổi mình” thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Không hiểu nổi mình thì sóng sẽ tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.

Đứng trước biển, con người ta dề có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình biển vẫn thô này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đât rồi, biển vẫn thế kia. vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biến vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đổì diện với sự bất diệt có thực của biến, người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khu vực tình yêu vẫn bồi hồi trong lồng ngực họ:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi. hồi trong ngực trẻ.

Đến khố thơ thứ ba, sóng lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biến, người phụ nữ ấy muôìi cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng. Nhưng nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt dầu tư đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau.

“Khi nào ta yêu nhau”, câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta càng thấy ra tình duyên của mình là không thế giải thích được. Người ta thường thiêng liêng hóa tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con người mới trở nên linh thiêng!

Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu - Con sóng trên mặt nước - Ôi con sóng nhớ bờ - Ngày đêm không ngủ dược - Lòng em nhớ dển anh - Cà trong mơ còn tliức”. Là lòng thủy chung: “Dẫu xuôi về phương bắc - Dẫu ngược về phương nam - Nơi nào em củng nghĩ - Hướng về anh một phương”. Là hành trình đến với hạnh phúc của 'những lứa đôi: “Ớ ngoài kia đại dương - Trăm nghìn con sóng dó - Con nào chẳng tới bờ - Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: “Cuộc dời tuy dài thế - Năm tháng vẫn đi qua - Như biển kia dẫu rộng - Mây vẫn bay về xa”... Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Đế đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biển: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thủy vô chung của thời gian và nhỡn tiền là sự vô hạn vô hôi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi, phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vân thế. Chỉ có biển kia là bâ't diệt. Thân nhận phù du nào cũng muôn hóa vĩnh hàng! Người ta thèm muốn được bất tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muôn được có mặt mãi trên cõi đời này. Đế được sông! Để dược yêu! Sổìig trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tỉnh yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

Bài thơ dẫu đã dừng, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!

(NGUYỄN ĐĂNG MẠNH)

Viết bình luận