Soạn bài: Tuần 4 - Bài ca ngất ngưởng

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), biệt hiệu là Hi Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học nề nếp. Từ nhỏ đến năm 1819, ông sống nghèo khó nhưng chính trong thời gian này, Nguyễn Công Trứ đã có điều kiện tham gia sinh hoạt hát ca trù vốn khá phát triển ở làng Cổ Đạm gần làng ông.

Nguyễn Công Trứ học hành cần cù, say mê và mặc dầu thi cử lận đận, nhiều lần bị đánh hỏng, ông vẫn theo đuổi khoa cử đến tận năm 42 tuổi mới đỗ Giải nguyên. Mặc dù sau đó, con đường hoạn lộ của Nguyễn Công Trứ thăng giáng thất thường, nhưng bằng cuộc đời của chính bản thân mình, ông đã chứng tỏ là một bề tôi trung thành với nhà Nguyễn, đồng thời cũng chứng tỏ là người có tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, từ văn hoá, kinh tế đến quân sự.

Năm 1858, Nguyễn Công Trứ đã 80 tuổi, khi tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp bùng nổ, ông vẫn dâng sớ xin cầm quân đi đánh giặc. Cũng năm đó, ông mất.

2. Sáng tác của Nguyễn Công Trứ chủ yếu được ghi lại bằng chữ Nôm. Trước tác của Nguyễn Công Trứ còn khoảng trên 50 bài thơ, trên 60 bài ca trù và một bài phú nổi tiếng Hàn nho phong vị phú. Thể loại ưa thích nhất của Nguyễn Công Trứ là hát nói. Hát nói khá phổ biến từ các thế kỉ trước, nhất là cuối thế kỉ XVIII, song rõ ràng Nguyễn Công Trứ là người có công đầu tiên trong việc đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó.

3. Bài ca ngất ngưởng là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Công Trứ. Tác phẩm được làm vào sau năm 1848 (năm ông cáo quan về hưu). Bài thơ được làm theo thể ca trù. Trên cơ sở ý thức về tài năng và nhân cách của bản thân, Nguyễn Công Trứ trong Bài ca ngất ngưởng đã phô trương, khoe sự ngang tàng, sự phá cách trong lối sống của ông, lối sống ít phù hợp với khuôn khổ của đạo Nho.

II - HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Trong bài thơ, ngoài nhan đề, tác giả có tới bốn lần sử dụng từ ngất ngưởng. Ngất ngưởng trong bài thơ được hiểu theo nghĩa là sự ngang tàng, phá cách, phá vỡ khuôn mẫu, hành vi "khắc kỉ phục lễ" của nhà nho để hình thành một lối sống thực hơn, dám là chính mình, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân. Người ngất ngưởng dám xem thường lễ, đối lập với lễ, bỏ qua danh giáo mà theo tự nhiên.

Trong bốn lần sử dụng từ ngất ngưởng, ngoài từ ngất ngưởng ở cuối bài thơ, ba từ còn lại được dùng gắn với hai hoàn cảnh và môi trường khác nhau. Trước hết, Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng khi hành đạo (khi làm quan, thực hiện các chức phận, ông luôn tỏ ra thẳng thắn, thậm chí dám kiến nghị, góp ý cả cho vua). Có được phong cách ngạo nghễ như vậy vì ông có tài năng thực sự và tận tâm với sự nghiệp, không hề luồn cúi để vinh thân phì gia. Trong đời thực, Nguyễn Công Trứ đã từng lập nhiều công trạng và là người có tài năng nhiều mặt, mặc dù vậy ông vẫn phải chấp nhận một cuộc đời làm quan không mấy thuận lợi (ông bị thăng giáng thất thường).

Sau khi từ quan, cách ông nghỉ và chơi cũng rất ngông, rất khác thường. Ông đeo mo vào đuôi bò nói là để "che miệng thế gian", ông dẫn các cô gái trẻ lên chơi chùa, ông đi hát ả đào và tự đánh giá cao các việc làm ấy. ông có quyền ngất ngưởng vì ông về hưu trong danh dự, sau khi đã làm được nhiều việc hữu ích cho dân cho nước. Theo ông, điều quan trọng nhất của nhà nho là hoạt động thực tiễn chứ không phải là nếp sống uốn mình theo dư luận. Ông thích hát nói vì đó là môn nghệ thuật ông say mê từ nhỏ. Vì thế khi về hưu ông vẫn đi hát vì không muốn tỏ ra mình là một bậc phi phàm, khác đời như các thánh nhân.

2. Nguyễn Công Trứ biết làm quan là mất tự do. Ông coi chốn quan trường như cái lồng giam hãm con người vậy (Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng). Thế nhưng ông vẫn ra làm quan vì đó là phương tiện để ông thể hiện tài năng và hoài bão của mình. Cũng bởi ông quan niệm rằng mình đã cống hiến hết tài năng và nhiệt huyết cho xã hội, cho triều đại, do đó, "nghĩa vua tôi" ông đã thực hiện trọn vẹn và ông có quyền ngất ngưởng nhất so với các quan lại trong triều. Tóm lại, ngất ngưởng thực chất là một phong cách sống tôn trọng sự trung thực, tôn trọng cá tính, không chấp nhận sự "khắc kỉ phục lễ", uốn mình theo lễdanh giáo của nho gia.

3. Trong bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ đã tự kể về mình, tự thuật, tự đánh giá về bản thân. Giọng điệu tự thuật khảng khái, đầy cá tính một lần nữa cho thấy ông sòng phẳng, thẳng thắn và có ý thức rõ ràng về phong cách sống của mình. Nguyễn Công Trứ tự hào vì đã có một cuộc sống hoạt động tích cực trong xã hội. Ông cũng tự hào vì dám sống cho mình, bỏ qua sự gò bó của lễdanh giáo.

4. Đến đầu thế kỉ XIX, thể hát nói (một thể thơ bác học do các tác gia người Việt sáng tạo trong môi trường văn hoá song ngữ Hán Nôm thời trung đại) phát triển mạnh. Nhiều nhà nho, nhà thơ, nhà chính trị nổi tiếng lúc đó, dường như đều gửi gắm tâm sự của mình trong hát nói. Nhờ đó thể loại này nhanh chóng chiếm được vị trí độc tôn và trở thành một khuynh hướng văn học của thời đại.

Có thể nói, so với các bài thơ Đường luật gò bó, chật chội, hát nói phóng khoáng hơn nhiều. Hát nói có quy định về số câu, về cách chia khổ nhưng nhìn chung người viết hoàn toàn có thể phá cách toàn bộ điều này để tạo nên một tác phẩm tự do về số câu, số chữ, về cách gieo vần, nhịp điệu,... Sự phóng khoáng của thể thơ đặc biệt thích hợp với việc chuyển tải những quan niệm nhân sinh mới mẻ của tầng lớp nhà nho tài tử khao khát khẳng định mình, sống theo mình, coi thường những ràng buộc chật chội của lễ nghi, của xã hội.

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

- Sự khác biệt về từ ngữ giữa bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca phong cảnh Hương Sơn của Chu Mạnh Trinh:

+ Ngôn ngữ của Bài ca ngất ngưởng vừa phù hợp với nội dung, vừa phù hợp với phong cách của Nguyễn Công Trứ. Nó phóng khoáng, tự do, có chút ngạo nghễ.

+ Ngôn ngữ của Bài ca phong cảnh Hương Sơn nhẹ nhàng, thấm đẫm ý vị thiền và niềm say mê phong cảnh thiên nhiên đất nước.

Viết bình luận