Soạn bài: Tìm hiểu chung về văn nghị luận

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng nào đó. Muốn thế, văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.

2. Những tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn đề có thực trong đời sống thì mới có ý nghĩa.

II - HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI

1. Nhu cầu nghị luận

a) Trong đời sống, những vấn đề và câu hỏi như trong mục I.l.a) SGK là rất hay gặp. Những câu hỏi và vấn đề tương tự như: Tại sao phải học suốt đời ? Thế nào là người con ngoan, trò giỏi ? Người bạn tốt là người như thế nào ? Tại sao phải trồng cây gây rừng ? Vì sao cần phải bảo vệ môi trường ?...

b) Gặp vấn đề và câu hỏi loại đó, khó có thể trả lời bằng kiểu văn bản tự sự (kể chuyện), miêu tả hay biểu cảm. Muốn trả lời các câu hỏi như vậy, người ta buộc phải dùng lí lẽ để giải thích, thuyết phục, phải sử dụng các khái niệm, dẫn chứng.

c) Để trả lời những câu hỏi như thế, trên báo chí, đài phát thanh và truyền hình, ta thường gặp văn bản nghị luận. Những văn bản đó là : chống buôn lậu; đảm bảo an toàn giao thông; bảo vệ rừng, chống lâm tặc,...

2. Khái niệm văn bản nghị luận

a) Bác Hồ viết bài Chống nạn thất học nhằm kêu gọi mọi người đi học để nâng cao dân trí. Để thực hiện mục đích ấy, bài viết nêu ra ý kiến : Nhân dân ta phần lớn thất học do chính sách ngu dân của Pháp. Bây giờ phải nâng cao dân trí. Muốn thế, mọi người phải đi học. Muốn giúp mọi người đi học, phải vận động những người đã biết chữ dạy cho người chưa biết.

Luận điểm trong bài là : "Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí" và "Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi và bổn phận của mình... trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ".

b) Để ý kiến có sức thuyết phục, bài viết đã nêu lên các lí lẽ :

- Tình trạng thất học, lạc hậu của 95% dân số.

- Điều kiện để người dân tham gia xây dựng nước nhà.

- Khả năng dạy, học chữ Quốc ngữ cho mọi người là to lớn, việc chống thất học có thể thực hiện được.

c) Tác giả cũng có thể thực hiện mục đích của mình bằng văn kể chuyện, miêu tả hay biểu cảm, nhưng cách làm sẽ khó hơn gấp nhiều lần và hiệu quả sẽ không như dùng văn nghị luận.

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. a) Cần tạo ra thói quen tốt trong đời sống xã hội là bài nghị luận, vì nó đặt vấn đề phải tạo thói quen tốt trong xã hội và phê phán thói quen xấu.

b) Tác giả đề xuất ý kiến tạo ra thói quen tốt, phê phán thói quen xấu và kêu gọi mọi người tạo thói quen tốt, chống thói quen xấu để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội. Nhan đề bài viết và ba câu trong đoạn kết luận thể hiện ý kiến đó.

Để thuyết phục người đọc, tác giả nêu ra lí lẽ và dẫn chứng về thói quen xấu : hút thuốc, gạt tàn bừa bãi ; vứt rác gây mất vệ sinh ; vứt rác gây tai nạn nguy hiểm.

c) Bài văn nghị luận này đặt vấn đề thường gặp trong thực tế. Đây là vấn đề xã hội. Tạo thói quen tốt, chống thói quen xấu là nhằm tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội.

2. Bài văn trên chia làm 3 phần :

Hai câu đầu tiên, Mở bài, nói về thói quen tốt.

Đoạn tiếp theo, Thân bài, nói về các thói quen xấu.

Ba câu cuối cùng, Kết bài, kêu gọi xây dựng thói quen tốt từ mỗi người, mỗi gia đình.

3. Em hãy sưu tầm hai đoạn văn nghị luận trong báo, trong SGK.

4. Bài văn Hai biển hồ là văn bản nghị luận. Việc kể chuyện hai biển hồ chỉ là phương tiện để đi đến vấn đề tư tưởng : cần phải sống sẻ chia, hoà hợp thì mới có ích cho mình và cho mọi người ; nếu không sẽ chết dần chết mòn như biển Chết.

Viết bình luận