Soạn bài: Nhàn

1. Hai câu thơ đầu là công việc nhàn hạ và cuộc sống thuần hậu của thi nhân:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Cáo quan về ẩn cư ở quê, Nguyễn Bỉnh Khiêm như một lão nông tri điền điềm tĩnh và tự tại khi làm vườn, khi đi câu, thơ thẩn giữa tạo vật đất trời với những công cụ lao động thông thường mai, cuốc, cần câu... Phép liệt kê với cách dùng số đếm rõ ràng, rành rọt: “Một... một... một...” cho người đọc cái cảm giác như thế mọi thứ đều đã đủ đầy, sẵn sàng và chu đáo.

Nhịp điệu của bài thơ, đặc biệt là nhịp điệu của hai câu thơ này bộc lộ cái cốt cách tự tại, điềm tĩnh lạ thường của tác giả: “Tha thẩn dầu ai vui thú nào”. Hai câu thơ diễn tả được cái phong thái thích thanh thản ung dung của bậc ẩn cư nhàn dật. Ai là đại từ phiếm chỉ để nói về người khác, sử dụng ở đây đọc lên nghe sao mà thú vị.

Cuộc sống của cụ Trạng tuy đạm bạc nhưng rất thanh cao.

2. Thi nhân lòng thanh thản, quên hẳn chốn phồn hoa đô hội, cát vẩn bụi lầm, chọn nơi thuần hậu nước biếc non xanh làm vui:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Đối lập với nơi vắng vẻchốn lao xao. Đối lập với tangười. Nơi vắng vẻ chính là cảnh nhàn, là nơi không chen chúc cầu cạnh lợi danh, là nơi tâm trí lâng lâng, thanh thản. Ta ở dây là tác giả bằng lòng, vui thích sống cảnh nhàn. Người đến chốn lao xao là đến chôn quan trường, hoạn lộ. Chốn lao xao là chốn tấp nập ngựa xe, đủ đầy yến tiệc, kẻ hạ người hầu, nhưng cũng lắm bon chen, thủ đoạn, luồn cúi và sát phạt lẫn nhau.

Lánh đục tìm trong, đến với sự thanh thản ung dung, tâm hồn thư thái của kẻ nhàn dật, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất tự tại, đối lập với lợi danh, lấy cuộc nhàn du giữa nước biếc non xanh làm vui thú. Tâm tính đó đã thốt thành lời: Tha thẩn dầu ai vui thú nào! Niềm vui thú vừa mới hiện lên không chỉ trong bước đi. Thơ thẩn ấy mà còn lan tỏa chi phối đến cả âm điệu của toàn thể bài thơ.

3. Trong cảnh nhàn, về với thiên nhiên, sống thuận hòa càng tự nhiên, sinh hoạt hằng ngày hằng năm của Tuyết Giang Phu Tử bao giờ cũng bình dị đơn sơ mùa nào thức đó:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm áo.

Măng trúc, giá đỗ là những thức ăn quê mùa dân dã, đạm bạc mà thanh cao vì đây là cây nhà lá vườn do chính tự công sức mình làm nên. Ăn là vậy, còn ở, còn sinh hoạt? Thì cũng tắm hồ, tắm ao như bao kẻ mộc mạc chân quê khác, chẳng hề bận rộn những đòi hỏi, phiền toái cầu kì.

Tùy mùa, tùy thời, thời nào thức ấy cuộc sống thi nhân tuy đạm bạc mà không khổ hạnh, tuy bình dị mà thanh cao. Hai câu luận làm thành một bộ tranh tứ bình có cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông với các cảnh sinh hoạt thụ hưởng gồm đủ mùi vị sắc hương mà lại hết sức thanh thoát, nhẹ nhàng, thanh cao mà đạm bạc.

4. Hai câu cuối khép lại bài thơ dẫn một điển tích:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Ngày xưa, Thuần Vu Phần uống rượu say nằm mộng dưới gốc cây, bừng giấc mộng, tỉnh dậy hiểu ra phú quý chỉ là một giác chiêm bao. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm, rượu đến gốc cây, người chỉ uống từng hớp. Uống từng hớp ở đầu môi mà chép miêng để cho biết vị, nghĩa là người chẳng cần say, không cần vào mộng, tỉnh thức mà vẫn xem phú quý tựa chiêm bao. Đủ thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng là một bậc thức giả với trí tuệ vô cùng tỉnh táo, với nhãn quan tỏ tường, cách nhìn thông tuệ. Ông đã lựa chọn thái độ từ bỏ “chốn lao xao” quyền quý để đến với “nơi vắng vẻ” sống đạm bạc mà thanh cao.

5. Quan niệm nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống hòa hợp với tự nhiên, đối lập với danh lợi, giữa cốt cách thanh cao. Tuy có nhàn thân nhưng chẳng nhàn tâm. Tuy nhân nhưng vẫn một lòng ưu ái với đời khác hẳn với lối sống nhàn độc thiện kí thân (làm tốt cho riêng mình). Chữ nhàn trong thơ Tuyết Giang Phu Tử cũng là chữ nhàn của Chu Văn An của Nguyễn Trãi.

6. Qua bài thơ này ta cảm nhận được vẻ đẹp cuộc sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm: cuộc sống đạm bạc hòa hợp với tự nhiên, nhân cách thanh cao, trí tuệ sáng suốt và uyên thâm.

Viết bình luận