Soạn bài: Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí)

1. Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có nhan sắc lại có tài văn chương nghệ thuật. Làm vợ lẽ một nhà quyền quý, thân phận cô cay đắng, hẩm hiu. Những sáng tác của cô bị vợ cả đốt bỏ. Thương xót cho số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du thương xót cho số phận của những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng bất hạnh. Nhà thơ suy ngẫm về định mệnh nghiệt ngã của những người có tài văn chương nghệ thuật. Bởi vậy, Nguyễn Du không chỉ khóc cho Tiểu Thanh, cho Thúy Kiều mà còn khóc cho chính bản thân mình.

2. “Cổ kim hận sự thiên nan vấn” nghĩa là “Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được”. Mối hận cổ kim là gì? Đó chính là mối hận của người xưa và người nay, những người tài hoa mệnh bạc. Người xưa có thể là Tiểu Thanh, là Đạm Tiên, là Thúy Kiều... và bao nhiêu người khác nữa cũng tài hoa mệnh bạc như họ. Người nay có thể là những cô gái hồng nhan bạc mệnh đang sống cùng thời văn Nguyễn Du, cũng có thế là những con người, những nhà thơ tài hoa văn chương nghệ thuật như Nguyễn Du nhưng bất hạnh long đong, lận đận trong cuộc đời. Theo Nguyễn Du “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” là một thông lệ, hơn thế nữa, là một định lệ khắc nghiệt. Chính vì thế mà nhà thơ viết: "Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi”. Trời xanh luôn luôn bất công với những con người vẹn toàn tài sắc, các bậc tài tử tài hoa văn chương nghệ thuật. Nguyễn Du coi mình là người cùng hội cùng thuyền với trang tài sắc Tiểu Thanh nên viết câu thơ tiếp đó: “Phong vận kì oan ngã tự cư” nghĩa là: “Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã”. Đúng là một sự đồng điệu của những người cùng cảnh ngộ. Nỗi hờn kim cổ, nỗi oan khổ của Tiểu Thanh, nỗi đau đời của Nguyễn Du đều “không thể hỏi trời được” bởi lẽ câu hỏi đó không có lời giải đáp. Lời oán trách trời xanh nỡ vô tình như thế với những tài hoa văn chương nghệ thuật đâu chỉ với Tiểu Thanh, trước Nguyễn Du hàng trăm năm mà với cả với Đỗ Phủ trước ông cả ngàn năm. Trong bài thơ Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ, Nguyễn Du viết:

“Nhất cùng chí thử khởi công thi”

Ông cả cuộc đời cùng khổ như thế há vì hay thơ?

3. Đâu chỉ một lần Nguyễn Du thương xót và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh. Nhà thơ đã nêu lên vấn đề về quyền sống của những người nghệ sĩ, văn nghệ sĩ. Nàng Tiểu Thanh ở đây chẳng hạn, có tài văn chương làm thơ giỏi nhưng các sáng tác của nàng đã bị đốt dở, thân phận nàng bất hạnh hẩm hiu, đau khổ. Không chỉ khóc cho Tiểu Thanh, Nguyễn Du còn khóc nàng Kiều. Kiều có sắc đẹp, có tài năng thơ ca giỏi đàn hát, tâm hồn cao đẹp mà cũng chịu số phận bất hạnh. Thương cảm cho những con người tài sắc này cũng là một cách nhà thơ bày tỏ sự trân trọng của chính mình đối với những người nghệ sĩ đồng hội, đồng thuyền. Ông đã thấy rõ hơn ai hết ý nghĩa xã hội của họ, những con người trải tâm hồn mình ra cống hiến cho đời những giá trị tinh thần tốt đẹp. Đây cũng là điểm tiến bộ trong chủ nghĩa nhân bản, nhân văn của Nguyễn Du. Hơn thế nữa, chủ nhân của các giá trị tinh thần đó lại là người phụ nữ hẳn là sự thương cảm của nhà thơ càng có sâu sắc hơn gấp bội.

4. Bài thơ có 4 đoạn: Khai, thừa, chuyển, hợp. Mỗi đoạn có một vị trí riêng đối với chủ đề riêng của bài thơ. Hai câu đề bắt đầu bằng một sự kiện cụ thể. Nhà thơ tưởng tượng và hình dung ra cảnh Tây Hồ hoang phế, nơi đây cuộc đời bất hạnh đầy buồn tủi của Tiểu Thanh đã diễn ra. Ông như thấy được những mảnh giấy còn sót lại của người phụ nữ tài hoa, từ đó mà xúc cảm thơ trỗi dậy. Tiếp theo, hai câu thực là những suy nghĩ, liên tưởng được khơi gợi từ cảnh vật đã nói. Ở hai câu này, tác giả suy nghĩ về số phận hẩm hiu của Tiểu Thanh, một người phụ nữ có nhan sắc (son phấn) và tài văn chương. Sau đó là hai câu luận: Khái quát, nâng vấn đề, liên hệ giữa thân phận bản thân tác giả và thân phận Tiểu Thanh và cho là đáng hận. Sau cùng, khép lại bài thơ là tiếng khóc đồng cảm: người đời sau khóc người đời nay, người đời nay khóc người đời xưa.

Viết bình luận