Soạn bài: Bài 26 - Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận

I. YẾU TỐ BIỂU CẢM TRONG VĂN NGHỊ LUẬN:

1. Đọc văn bản Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ chí Minh và trả lời các câu hỏi:

a) Những từ ngữ biểu lộ tình cảm mãnh liệt của tác giả và những câu cảm thán trong văn bản trên là:

- Không, thà, nhất định không chịu, nhất định không chịu.

- Hỡi đồng bào!

- Chúng ta phải đứng lên!

Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh giống nhau ở chỗ có nhiều từ ngữ và nhiều câu văn có giá trị biểu cảm.

b) Tuy nhiên, Hịch tướng sĩLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vẫn được coi là những văn bản nghị luận chứ không phải là văn bản biểu cảm. Vì các tác phẩm này viết ra chủ yếu không phải nhằm mục đích biểu cảm (bộc lộ tình cảm) mà chủ yếu nhằm mục đích nghị luận. Các tác giả đã nêu quan điểm, ý kiến để bàn luận phải trái, đúng sai, nên nghĩ suy và có thái độ ra sao trước vận mệnh của nước nhà. Trong các văn bản này, biểu cảm không đóng vai trò chủ đạo mà chỉ là một yếu tố hỗ trợ cho quá trình bàn bạc nghị luận mà thôi. Nhưng chính yếu tố biểu cảm lại giúp cho bài nghị luận có tính thuyết phục hơn hẳn.

c) Hãy theo dõi bảng đối chiếu dưới đây:

(1)

(2)

Thấy sứ giặc đi lại ngoài đường, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ.

Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ.

Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt.

Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!

Chúng ta sẵn sàng hi sinh tất cả, chứ không thể mất nước, không thể làm nô lệ.

Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Chúng ta cần đứng lên.

Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!

Có thể thấy những câu ở cột (2) thuyết phục hơn những câu ở cột (1) vì những câu ở cột (2) có thêm những yếu tố biểu cảm.

Từ đó ta thấy văn nghị luận rất cần yếu tố biểu cảm. Yếu tố biểu cảm giúp cho văn nghị luận có hiệu quả thuyết phục hơn, vì nó tác động mạnh mẽ tới tình cảm của người đọc, người nghe.

2. Thông qua việc tìm hiểu các văn bản như Hịch tướng sĩLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, em hãy cho biết: Làm thế nào để phát huy hết tác dụng của yếu tố biểu căm trong văn nghị luận?

- Yếu tố biểu cảm, như đã nói, chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho công việc nghị luận. Do đó, trong một bài văn nghị luận, yếu tố biểu cảm chỉ được xem là có giá trị đặc sắc khi nó làm tăng sức thuyết phục và không làm cho mạch nghị luận bị phá vỡ.

a) Người làm văn không chỉ cần suy nghĩ về luận điểm hay lập luận mà cần phải thực sự xúc động trước những điều mình đang nói tới. Bởi vì người làm văn nghị luận sẽ không biếu cảm được với ai nếu bản thân mình không xúc cảm.

b) Như vậy, không phải chỉ có rung cảm là đủ. Không thể nói chỉ cần có lòng yêu nước và căm thù giặc cao độ là có thể dễ dàng tìm ra những cách nói như : “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả,...” hay “uốn lưỡi cú diều...”. Để viết được như thế, người viết còn cần phải suy nghĩ về luận điểm và lập luận.

c) Có người cho rằng: càng dùng nhiều từ ngữ biểu cảm, càng đặt nhiều câu cảm thán thì giá trị biểu cảm trong văn nghị luận càng tăng.

Y kiến này chỉ đúng một phần, cần chú ý một điều là, tình cảm của người viết sẽ không được tiếp nhận khi người đọc, người nghe chưa tin là nó chân thành. Vì thế người viết phải chú ý làm cho sự diễn tả cảm xúc của mình rất chân thực.

II. LUYỆN TẬP

Bài tập 1

Các yếu tố biểu cảm trong phần I. Chiến tranh và “người bản xứ” (ở văn bản Thuế máu).

- “Tên da đen bẩn thỉu”, “An-Nam-mít bẩn thỉu”, “con yêu”, “bạn hiền”, “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”... Biện pháp “nhại”, các từ trên là cách xưng gọi của bọn thực dân Pháp trước và sau chiến tranh. Trước thì khinh miệt, sau thì đề cao một cách bịp bợm. Tác giả nhại các lời ấy và đem đối lập với nhau, nhằm mỉa mai giọng điệu dối trá cua bọn thực dân.

- Nhiều người bản xứ đã chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thủy quái. Một số khác đã bỏ xác tại miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng!!!

Tác giả dùng hình ảnh mỉa mai bằng chính giọng điệu tuyên truyền của thực dân. Yếu tố biểu cảm ở đây tạo được hiệu quả về tiếng cười châm biếm sâu cay.

Bài tập 2

Trong đoạn văn, nhà giáo Nghiêm Toản đã thể hiện qua từ ngữ, câu văn và giọng điệu của lời văn một nỗi buồn và sự đau lòng của một nhà giáo chân chính trước sự “xuống cấp” trong lối học văn và làm văn của học sinh, những người mà ông hết lòng quý mến. Điều chủ yếu trong đoạn văn này, tác giả phân tích tác hại của học tủ và học vẹt để các em học sinh biết mà tránh.

Bài tập 3

Học sinh tự làm.

Viết bình luận