Soạn bài: Viếng lăng Bác

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Nhà thơ Viễn Phương (1928 - 2005), quê ở tỉnh An Giang. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Viễn Phương thường nhẹ nhàng, giàu tình cảm, khá quen thuộc với bạn đọc thời kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

2. Bài thơ Viếng lăng Bác được viết khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng xong, đất nước thống nhất, đồng bào miền Nam đã có thể thực hiện được mong ước ra viếng Bác. Trong niềm xúc động vô bờ của đoàn người vào lăng viếng Bác, Viễn Phương đã viết bài thơ này.

II - HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Cảm xúc bao trùm trong bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả vào lăng viếng Bác. Giọng điệu trong bài thơ là giọng thành kính, trang nghiêm trong những suy tư trầm lắng.

Cảm xúc đó được thể hiện theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác. Mở đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tiếp đó là cảm xúc trước hình ảnh dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Nỗi xúc động thiêng liêng khi vào lăng được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng : mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Trong khổ thơ cuối, tác giả thể hiện niềm mong ước thiết tha muốn mình mãi mãi ở lại bên lăng Bác.

2. Hàng tre là hình ảnh đầu tiên được tác giả miêu tả trong bài thơ. Đây là hình ảnh thực nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó là hình ảnh thân thuộc của làng quê, của đất nước Việt Nam - một biểu tượng của dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất, bền bỉ. Cuối bài thơ, hình ảnh hàng tre còn được lặp lại với ý nghĩa cây tre trung hiếu. Đó cũng là một phẩm chất tiêu biểu của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Cách kết câu như vậy gọi là kết câu đầu cuối tương ứng, làm đậm nét hình ảnh, gây ấn tượng sâu sắc và cảm xúc được nâng cao lên.

3. Tình cảm của nhà thơ, của mọi người đối với Bác đã được thể hiện qua sự kết hợp giữa những hình ảnh thực với những ẩn dụ đặc sắc :

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Hình ảnh mặt trời trong câu thơ thứ hai vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ vừa thể hiện được sự thành kính của nhà thơ và của cả dân tộc đối với Bác.

Đến hai câu tiếp theo, hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ là thực nhưng kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân lại là một ẩn dụ đẹp và rất sáng tạo, thể hiện sâu sắc những tình cảm thành kính, thiêng liêng của nhân dân đốì với Bác.

Đến khổ thứ ba, dòng người đang yên lặng đi qua linh cữu Bác trong nỗi nhớ thương và xót xa vô hạn. Không khí tĩnh lặng, khung cảnh yên tĩnh nơi đây đã khiến cho ngay cả hình ảnh thơ cũng thay đổi:

Bấc nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.

Hình ảnh mặt trời rực đỏ trong lăng đã được thay bằng vầng trăng "sáng dịu hiền". Sự thay đổi ấy thể hiện rất nhiều ý nghĩa. Bác không chỉ là một người chiến sĩ cách mạng, là ngọn đuốc sáng soi đường cho dân tộc (ý nghĩa biểu tượng từ mặt trời), Bác còn là một người Cha có "đôi mắt Mẹ hiền sao !". Hình ảnh vầng trăng còn gợi ta nhớ đến những bài thơ tràn ngập ánh trăng của Người.

Đến hai câu thợ sau, mạch xúc cảm ấy đã được bộc lộ trực tiếp :

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim !

Đây là những câu thơ hết sức chân thành, mãnh liệt. Tình cảm mãnh liệt của tác giả đã khiến cho câu thơ vượt lên trên ý nghĩa biểu tượng thông thường, đồng thời tạo nên một mạch liên kết ngầm bên trong. Hình ảnh Bác được ví với mặt trời rực rỡ, với mặt trăng dịu mát, êm đềm và với cả trời xanh vĩnh cửu. Đó đều là những vật thể có ý nghĩa trường tồn gần như là vĩnh viễn nêu so với đời sống của mỗi cá nhân con người. Mặc dù vậy, tác giả vẫn thốt lên : "Mà sao nghe nhói ở trong tim!".

Đó là lời giãi bày rất thực, xuất phát từ những tình cảm mãnh liệt của nhân dân, đồng bào đốì với Bác. Thông thường, trong những hoàn cảnh tương tự, việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ là một thủ pháp nhằm giảm nhẹ nỗi đau tinh thần. Nhưng dường như nỗi đau quá lớn khiến cho những hình ảnh ẩn dụ trở nên không còn ý nghĩa, chỉ có cách diễn tả trực tiếp tâm trạng mới có thể giúp nhà thơ giãi bày tình cảm của mình.

Khổ thơ cuối thể hiện ước nguyện của nhà thơ được mãi mãi ở bên Bác. Đã đến giờ phút phải chia tay, tác giả chỉ có thể biểu hiện tấm lòng mình bằng ước muốn hoá thân vào những cảnh vật, sự vật ở bên Bác : muốn làm con chim cất cao tiếng hót, muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây, và nhất là muốn làm cây tre trung hiếu để có thể mãi mãi ở bên Bác.

4. a) Bài thơ có một giọng điệu rất phù hợp với nội dung cảm xúc của nhân vật trữ tình. Đó là giọng vừa trang nghiêm, sâu lắng lại vừa tha thiết, đau xót, tự hào.

b) Về thể thơ và nhịp điệu : Bài thơ chủ yếu được viết theo thể thơ 8 chữ nhưng đôi chỗ có xen những câu thơ 7 hoặc 9 chữ. Cách gieo vần trong các khổ thơ cũng khá linh hoạt (có khi gieo vần liền, có khi gieo vần cách). Nhịp thơ khá chậm phù hợp với không khí trang nghiêm, thành kính. Riêng khổ thơ cuối, nhịp thơ được đẩy nhanh hơn để phù hợp với những ước mơ, khao khát của nhà thơ.

c) Về ngôn ngữ và hình ảnh : Bài thơ có nhiều hình ảnh sáng tạo, vừa mang nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Đáng chú ý nhất là các hình ảnh ẩn dụ (mặt trời, tràng hoa, trời xanh, vầng trăng). Những hình ảnh. này vừa quen thuộc, lại vừa sâu sắc, gợi ra những ý nghĩa khái quát cao.

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Dựa vào phần phân tích ở câu 3 (phần II) để hình thành đoạn văn bình về khổ 2 hoặc khổ 3. Chú ý tập trung vào các hình ảnh giàu ý nghĩa nghệ thuật: mặt trời, dòng người, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng, trời xanh,...

Viết bình luận