Soạn bài: Sài Gòn tôi yêu

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Đây là bài mở đầu cho tập tuỳ bút - bút kí Nhớ... Sài Gòn, tập một của Minh Hương (NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1994), ghi lại những kỉ niệm, những ấn tượng sâu sắc của tác giả với Sài Gòn (nay là thành phố mang tên Bác).

Bài viết tập trung vào những nét đẹp riêng của Sài Gòn với những ấn tượng khó quên về khí hậu, thời tiết, thiên nhiên, cảnh vật của Sài Gòn, nhât là về phong cách con người Sài Gòn, những con người chân thành, bộc trực, luôn sống thắng thắn, hết mình; cũng là những người bất khuất, kiên cường, sẵn sàng dấn thân vào khó khăn, nguy hiểm không chút do dự.

2. Bài viết còn thể hiện cái nhìn tinh tế, cách cảm và biểu hiện tình cảm rất riêng của tác giả qua những hiểu biết cụ thể nhiều mặt về Sài Gòn.

II - HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Bài tuỳ bút thể hiện tình cảm yêu mến và những ấn tượng bao quát chung của tác giả về thành phố Sài Gòn trên các phương diện chính: thiên nhiên, khí hậu, thời tiết, cuộc sống sinh hoạt của thành phố, cư dân và phong cách con người.

Có thể chia bài văn làm ba đoạn:

- Đoạn 1 (từ đầu đến "tông chi họ hàng"): Nêu những ấn tượng chung về Sài Gòn và tình yêu của tác giả với thành phố ấy.

- Đoạn 2 (tiếp theo đến "leo lên hơn năm triệu"): cảm nhận và bình luận về phong cách con người Sài Gòn.

- Đoạn 3 (còn lại): Khẳng định tình yêu của tác giả với thành phố

2. Tình yêu của tác giả với Sài Gòn được thể hiện trước hết qua những cảm nhận khá tinh tế về thiên nhiên, khí hậu. Thời tiết Sài Gòn rất đa dạng (nắng sớm, gió lộng buổi chiều, cơn mưa nhiệt đới ào ào và mau dứt). Sự thay đổi đột ngột của thời tiết (trời đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thuỷ tình) cũng là một nét riêng độc đáo của thành phố này. Dường như để đồng điệu với thời tiết, khí hậu, nhịp sống cua thành phố cũng rất đa dạng: ban ngày phố phường náo động, dập dìu xe cộ, đêm khuya thưa thớt tiếng ồn, buổi sáng tĩnh lặng với làn không khí mát dịu, thanh sạch.

Trong bài tuỳ bút, tác giả đã bộc lộ tình yêu nồng nhiệt, thiết tha với thành phố Sài Gòn của mình. Từ tình yêu ấy, tác giả đã cảm nhận được những vẻ đẹp riêng của thành phố. Điệp khúc "Tôi yêu" được nhắc đi nhắc lại cùng với giọng điệu truyền cảm tha thiết ("Tôi yêu Sài Gòn da diết", "Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương", "Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn"...). Thậm chí cả những hiện tượng "trái chứng, giở giời", thay đổi đột ngột và không mây dễ chịu của thời tiết trong tâm trí của tác giả cũng trở thành những cái đáng yêu, đáng nhớ. Đê giải thích điều đó, tác giả đã vận dụng cả câu ca dao nói về quy luật tâm lí của con người: "Yêu nhau yêu cả đường đi..." để nhân manh và khẳng định tình cảm yêu mến của mình với Sài Gòn.

3. Trong phần thứ hai của bài (từ "ở trên đất này" đến "từ 1945 đến 1975") tác giả tập trung nói về con người Sài Gòn với những đặc điểm chung về cư dân, về phong cách nổi bật của con người Sài Gòn với những nét riêng độc đáo.

Nhận xét về cư dân Sài Gòn, tác giả viết: "ở trên đất này, không có người Bắc, không có người Trung, người Nam, người Hoa, người Khơ-me..." mà chỉ toàn là người Sài Gòn cả...". Cách viết đầy ẩn ý ấy đã ngầm bộc lộ một Sài Gòn tuy gồm rất nhiều người từ các nơi khác nhau đến nhưng đều thống nhất với một phong cách, lốì sống chung. Tác giả đã lí giải điều đó rất rõ ràng khiến cho nhận định trên thêm sức thuyết phục: "Sống lâu, sống quen một thời gian dài ở Sài Gòn, rồi cứ ngỡ mình đã sinh ra ở đây và vô hình trung thừa nhận nơi đây là quê quán của mình".

Nét phong cách nổi bật của con người Sài Gòn được tác giả khái quát là tự nhiên, chân thành, cởi mở, manh bạo mà vẫn ý nhị. Tác giả đã chứng minh những nhận xét ấy bằng thực tế hiểu biết về con người Sài Gòn của mình qua gần năm mươi năm. Những tính cách ấy được biểu hiện trong đời sống hàng ngày và trong những hoàn cảnh thử thách của lịch sử. vẻ đẹp của con người Sài Gòn được minh họa qua hình ảnh các cô gái Sài Gòn với trang phục khoẻ khoắn, cử chỉ, dáng điệu vừa yểu điệu thơ ngây vừa nhiệt tình, tươi tắn.

4. Qua bài văn, ta hiểu thêm nhiều điều về Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), một thành phố lớn nhất ở phương nam của Tổ quốc. Thành phố không chỉ lớn về diện tích, đông về dân cư mà còn rất độc đáo về thời tiết, khí hậu, đặc biệt là con người. Con người nơi đây đến từ mọi miền khác nhau của đất nước nhưng họ đều có chung những nét tính cách rộng mỏ, phóng khoáng mà vẫn không kém phần tính tế.

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Em có thể tham khảo đoạn trích sau:

"... Bát ngát xung quanh là một màu trắng xoá. Những đám mây lơ lửng luồn qua ô cửa kính, chui vào cổ áo tôi lành lanh. Đằng trước, đằng sau, bên phải đều không nhìn thấy gì. Nếu không nhận ra mình đang ngồi trong chiếc ô tô quen thuộc thì nghe tiếng máy rì rì đều đều hẳn tôi đã nghĩ mình đang ở trong một chiếc máy bay xuyên qua một đám mây bông dày đặc. Nhìn qua bên trái, thấy mờ mờ mây thân cây bụi cỏ tôi mới hình dung ra xe mình đang đi trên đỉnh đèo.

Mặt trời như một quả cam nhợt nhạt từ từ hiện ra, chẳng mấy chốc đã chuyển sang màu đỏ ối. Sương tan rất nhanh. Những đám mây mù vừa mới cuồn cuộn quanh xe giờ đã biến đâu mất. Những ngọn núi dần dần hiện ra, có ngọn vẫn còn quấn quanh cổ chiếc khăn phu-la mỏng tang và trắng muốt. Tôi say sưa ngắm nhìn cảnh tượng chưa một lần nhìn thây trong đời, bỗng chớp chớp mắt ngạc nhiên. Ngọn núi bên canh đường không còn một tí mây nào mà sao vẫn như được choàng một chiếc khăn hoa lâm tấm từ trên đỉnh xuống tận chân. Chị tôi bảo đó là hoa ban, loài hoa đặc trưng của núi rừng Tây Bắc.

... Chị tôi kể rằng: Ngày xưa ở vùng rừng núi Tây Bắc này có một đôi trai gái thương yêu nhau thắm thiết mà không thể lấy được nhau. Cô gái tên Ban, là con tạo bản (trưởng bản) giàu có, chàng trai mồ côi cha mẹ từ sớm, nhà nghèo không kiếm đâu ra một trăm con ữâu, một trăm ché rượu và năm mươi chiếc vòng bạc làm đồ dẫn cưới. Tạo bản không ưng, đem gả con gái cho một nhà giàu có ở mãi nơi xa. Khi chàng trai biết chuyện, đến nơi thì không còn thấy cô đâu nữa. Anh đi khắp các cánh rừng, các con suối, vừa đi vừa khóc gọi tên cô. Tiếng gọi của anh nghe xót xa hơn tiếng con tu hú gọi bạn, tiếng hoẵng gọi bầy. Anh đi mỗi ngày mỗi xa, tiếng gọi, tiếng khóc của anh nhỏ dần rồi im bặt. Chàng trai đi và không bao giờ trở về nữa. Mùa xuân năm ấy bỗng thấy một loài hoa nở trắng các cánh rừng, các con suôi, dân bản bảo nhau rằng tiếng khóc của anh đã thấu đến lòng ông Tạo (Trời). Ông Tạo bèn hoá những giọt nước mắt của anh thành muôn cánh hoa. Nhớ tên cô gái là Ban, dân bản đặt luôn tên loài hoa đó là hoa ban.

Tôi nghe chuyện, thây thấm thìa vô cùng, chỉ mong sao được ngắm tận mắt một cành hoa ban. Chị tôi chiều ý, hôm sau đến nơi nhờ người dẫn tôi ra ngay cánh rừng gần trường chị dạy học. Tôi hơi thất vọng khi nhận ra rằng hoa ban chỉ đẹp khi nhìn từ xa, cầm trên tay cũng bình thường, lại chẳng có mùi vị gì. Bù lại, trí tưởng tượng của tôi được thả sức bay bổng. Anh bạn cùng đi dẫn tôi qua sườn núi nhìn sang thung lũng bên kia. Một lần nữa tôi lại không kìm nổi tiếng reo thích thú. Không phải chỉ là một vạt hoa mà cả một thảm hoa trước mặt, một bức tranh hoa. Tôi nói một bức tranh vì trên nền thảm hoa ban trắng xoá, ai đó đã điểm xuyết rất khéo những chùm hoa đào đỏ rực, sự tương phản khiến chúng nổi bật lên rực rỡ mà nhìn trong tổng thể vẫn hết sức hài hoà. Tôi đem câu chuyện của chị tôi ra kể và thắc mắc về những chùm hoa đỏ, anh bạn thoáng trầm ngâm rồi nói:

- Thế thì chúng ta phải bổ sung vào câu chuyện ấy chi tiết này. Ông Tạo (Trời) không chỉ biến những giọt nứớc mắt của chàng trai thành hoa ban ữắng. Chàng trai đi mãi, đi mãi, mặc cho đá sắc, gai nhọn xé rách bàn chân. Những giọt máu nhỏ xuống lại hoá thành muôn vàn bông hoa đổ thắm, được dân bản gọi là hoa đào.

Tôi bật cười khen anh bạn nhanh trí và cũng rất giàu khả năng tưởng tượng.

Mùa xuân năm ấy tôi như được tắm trong lễ hội hoa ban, hoa đào. Những chàng trai, cô gái từ bản xa về, từ trên núi xuống, tham gia vào lễ hội ném còn, kéo co... với những bộ váy áo sặc sỡ có hàng cúc trắng như những cánh hoa ban. Nhìn thây họ túm năm tụm ba, vui cười nhảy múa hoặc ném chò nhau những quả còn nhiều màu, tôi cứ tự hỏi: không biết trong số họ có chàng trai, cô gái trong câu chuyện cổ tích của chị tôi không? Đến đêm, một cảnh tượng khác còn làm tôi xúc cảm hơn nữa: Tây Bắc ngày ây còn chưa có điện, trong đêm tối mênh mang của rừng thắm, nhấp nháy những ánh đèn như những ánh sao đêm đang sà xuống. Và đâu đó trên sườn núi cao hay trong những thung sâu, véo von tiếng sáo gọi bạn. Những tiếng sáo nỉ non, tha thiết như lời tâm sự của lứa đôi. Họ vẫn đang tìm nhau hay đang kê cho nhau nghe về nỗi nhớ trong những ngày xa cách?

Cho đến tận bây giờ tôi vẫn giữ nguyên ân tượng mạnh mẽ về Tây Bắc, vùng đất của câu chuyện cổ tích diệu huyền về loài hoa thuần khiết, trắng trong".

(Theo Giang Khắc Bình, Báo Nhi đồng, số tết 2003)

Viết bình luận