Soạn bài: Bài 34 - Tổng kết phần Văn học (tiếp theo)

A. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Ghi lại tên tác phẩm, tác giả, thể loại của tác phẩm (hoặc đoạn trích) văn học Việt Nam trung đại, được học và đọc thêm trong sách giáo khoa Ngữ văn THCS theo hai bộ phận vãn học chữ Hán và chữ Nôm.

Học sinh thực hiện như đã chuẩn bị ở tuần trước.

2. Nêu những điểm phân biệt văn học dân gian với vãn học viết.

Gợi ý:

- Là sản phẩm tinh thần của quần chúng nhân dân, vãn học dân gian không mang tính cá thể. Còn văn học viết là sản phẩm tinh thần trực tiếp của nhà văn nên mang dấu ấn cá nhân rõ rệt.

- Văn học dân gian chỉ chọn lọc khái quát chung tiêu biểu cho cộng đồng. Còn văn học viết nhất là văn học hiện đại không chỉ quan tầm đến những cái chung mà còn chú ý đến số phận, tính cách và mọi vấn đề cá nhân con người.

- Vãn học dân gian là văn chương truyền miệng. Còn văn học viết là văn chương chữ viết.

3. Bài thơ Con cò của Chế Lan Viên.

               Con còn bế trên tay

               Con chưa biết con cò

               Nhưng trong lời mẹ hát

               Có cánh cò đang bay.

               “Con cò bay la

               Con cò bay lả

               Con cò cổng phủ

               Con cò Đồng Đăng...”

               Có một mình cò phải kiếm lấy ăn,

               Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.

               “Con cò ăn đêm

               Con cò xa tổ

               Cò gặp cành mềm,

               Cò sợ xáo măng...”

               Ngủ yên! Ngủ yên!

               Cò ơi, chớ sợ!

               Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân...

Tác giả đã vận dụng một cách sáng tạo các câu ca dao:

- Con cò bay lả, bay la

Bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng

- Con cò bay lả, bay la

Bay từ cổng phủ bay về Đồng Đăng

- Con cò mà đi ăn đèm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

Ông ơi ông vớt tôi nao

Tôi có lòng nao ông hãy xáo măng

Có xáo thì xáo nước trong

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

- Có thể dùng những bài thơ sau đây để chứng minh ảnh hưởng của văn học dân gian đến văn học viết:

- Bánh trôi nước. (Hồ Xuân Hương)

- Bạn đến chơi nhà. (Nguyễn Khuyến)

- Mùa xuân nho nhỏ. (Thanh Hải)

4. Có thể phân tích nội dung yêu nước trong bộ phận văn học yêu nước và cách mạng nửa đầu thế kỉ XX và giai đoạn 1945 - 1975. Chú ý là nếu trong thơ văn của các chí sĩ cách mạng hồi đầu thế kỉ XX, ý chí sôi sục cứu nước gắn với mong muốn canh tân đất nước, đánh đổ phong kiến đã trở thành công cụ của thực dân, đưa đất nước hòa nhập và tiến kịp trào lưu chung của thế giới, thì trong văn học cách mạng vô sản, mục tiêu cứu nước gắn liền với lí tưởng xã hội chủ nghĩa. Còn trong văn học giai đoạn 1945 - 1975, nội dung yêu nước lại càng phong phú và sâu sắc gắn liền với tư tưởng nhân dân, chủ nghĩa anh hùng và tinh thần lạc quan.

5. Có thể nêu biểu hiện của tư tưởng nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Tắt đèn của Ngô Tất Tố.

a) Chuyện người con gái Nam Xương

- Thông cảm xót xa với số phận đau khổ, oan trái của Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, là nạn nhân của chiến tranh, của tư tưởng và lễ giáo phong kiến.

- Khẳng định ca ngợi các phẩm chất: thủy chung, coi trọng đạo lí tình nghĩa, hết lòng vì cha mẹ, chồng con của người phụ nữ.

- Mong ước rửa oan cho Vũ Nương để Vũ Nương được an ủi, tôn vinh ở một thế giới khác.

b) Tắt đèn

- Lên án sự bất công và tàn bạo của bộ máy cai trị thực dân phong kiến đốì với người nông dân.

- Khẳng định đề cao với trọn vẹn lòng yêu mến, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp, sức sông và sự phản kháng mạnh mẽ của một người phụ nữ nông dân là chị Dậu.

Ghi nhớ: • Văn học Việt Nam đã xuất hiện từ thời dựng nước và gán liền với lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam. Nền văn học ấy gồm hai bộ phận là văn học dân gian và văn học viết. Văn học viết xuất hiện từ thế kỉ X, bao gồm các thành phần: văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Từ cuối thế kỉ XIX, chữ quốc ngữ được dùng để sáng tác thay thế dần cho chữ Hán và chữ Nôm.

Văn học Việt Nam đã phát triển qua ba thời kì lớn: từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, từ đầu thế kỉ XX đến nắm 1945 và từ sau Cách mạng tháng Tám 1945.

Tư tưởng yêu nước, tinh thần nhân đạo, sức sống bền bỉ và tinh thần lạc quan là những giá trị nổi bật của nền văn học Việt Nam. Nền văn học ấy củng thường kết tinh ở những tác phẩm có quy mô không lớn, có vẻ đẹp hài hòa, trong sáng.

Văn học Việt Nam là bộ phận quan trọng trong văn hóa tinh thần dân tộc, thề hiện những nét tiều biểu của tâm hồn, lối sống, tính cách và tư tưởng của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong các thời đại

B. SƠ LƯỢC VỀ MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC

Gợi ý hướng dẫn học bài

1. Các thể loại chính của văn học dân gian được học trong chương trình Ngữ văn THCS.

+ Truyền thuyết.

+ Cổ tích.

+ Ngụ ngôn.

+ Truyện cười...

- Truyền thuyết là gì?

Truyền thuyết là loại truyện dân gian truyền miệng kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tó' tưởng tượng, kì ảo.

- Cổ tích là gì?

Truyện cổ tích là loại truyện dân gian thời xưa kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc như: nhân vật bất hạnh; nhân vật dũng sĩ và nhân vật có tài năng kì lạ; nhân vật thông minh và nhân vật ngô'c nghếch; nhân vật là động vật.

Truyện cổ tích thường có yếu tố hoang đường, thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của lòng nhân ái, lẽ phải, sự công bằng đối với gian tham, bất công của cái Thiện đỗì với cái Ác.

- Truyện ngụ ngôn là gì?

Truyện ngụ ngôn là loại truyện kể, bằng văn xuôi hay văn vần, mượn chuyện về loài vật, đồ vật hoặc về chính con người để nói bóng gió, kín đáo chuyện con người, nhằm khuyên nhủ, răn dạy người ta bài học nào đó trong cuộc sống.

- Truyện cười là gì?

Truyện cười là loại truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cười mua vui hoặc phê phán những thói hư, tật xấu trong xã hội.

2. Nhân vật dũng sĩ

- Nhân vật có tài năng đặc biệt: Mã Lương trong truyện cổ tích Cây bút thần, Thạch Sanh trong truyện cổ tích Thạch Sanh.

- Nhân vật xấu xí hình thù kì lạ: Sọ Dừa trong truyện cổ tích Sọ Dừa.

3. Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan là một bài thơ tiêu biểu về thể thất ngôn bát cú bằng chữ Nôm. Bài thơ chỉ dùng một vần là vần bằng, ở chữ cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8 (tà, hoa, nhà, gia, ta), về thanh, trong bài thơ có quy định vị trí và phối hợp các thanh bằng và trắc.

 

1

2

3

4

5

6

7

1

T

T

B

B

T

T

B

2

B

B

T

T

T

B

B

3

B

B

T

T

B

B

T

4

T

T

B

B

T

T

B

5

T

T

B

B

B

T

T

6

B

B

T

T

T

B

B

7

B

B

T

T

B

B

T

8

T

T

B

B

T

T

B

Theo hệ thống ngang, gọi là luật thì chữ thứ 1, 3, 5 được tự do (nhất, tam, ngủ bất luận). Kì thực thanh của chữ thứ nhất và thứ ba chỉ tương đốì được tự do vì có một vài trường hợp không được linh động. Còn chữ thứ 2, 4, 6 thì phải đúng luật (nhị, tứ, lục phân minh) thanh của chữ thứ tư phải ngược với thanh của chữ thứ hai và chữ thứ sáu.

Chữ thứ 2, câu đầu của bài thơ này là thanh trắc nên là luật trắc còn nếu chữ thứ hai câu đầu là thanh bằng thì là luật bằng. Theo hệ thống dọc gọi là niêm (dính - ở đây là có cùng cấu trúc về thanh điệu): Câu 1 phải niêm với câu 8, câu 2 với câu 3, câu 4 với câu 5, câu 6 với câu 7. Vế đôi có các cặp đốì giữa câu 3 và 4, 5 và 6.

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Các câu thơ này đốì về ý, về thanh và về từ loại (thanh phải đốì bằng - trắc, nhưng phải cùng từ loại).

Về cấu trúc bài thơ được triển khai theo bôn phần: đề (2 câu đầu) là mở đề vào bài thơ; thực (câu 3, 4) là miêu tả cụ thể tình, cảnh, sự; luận (câu 5, 6) là bàn luận nhận xét về đề tài; kết (2 câu cuối) khép lại bài thơ.

4. Em đã học các truyện thơ Nôm

- Truyện Kiều của Nguyễn Du.

- Lục .Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.

Tóm tắt Truyện Kiều: Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn, gặp gỡ Kim Trọng, chàng thư sinh tài mạo phong tư cùng thề nguyền hẹn ước.

Gia đình Kiều bị oan. Kiều phải bán mình chuộc tội cho cha và em trai. Nàng trải qua 15 nãm tủi nhục, rơi vào nhà chứa Tú Bà, mắc lừa Sở Khanh, làm lẽ Thúc Sinh, lại vào lầu xanh lần thứ hai và được làm vợ Từ Hải. Nhờ Từ Hải, Kiều báo ân báo oán nhưng sau đó lại mắc lừa Hồ Tôn Hiến. Từ Hải chết, nàng quyên sinh nhưng được cứu sống.

Cuôì cùng Kim Trọng, Thúy Kiều gặp lại nhau, cả nhà đoàn tụ.

Tóm tắt Lục Vân Tiên: Lục Vân Tiên, người học trò gồm tài văn võ, trên đường lai kinh ứng thí đã đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga. Do khóc thương mẹ mất, nên Lục Vân Tiên bị mù lòa lại bị bọn xâu hãm hại nhưng được thần và dân cứu giúp.

Trong khi đó, Kiều Nguyệt Nga - người tự nguyện chung thủy với Lục Vân Tiên sau ơn cứu nạn, cũng gặp chuyện không may. Nàng bị đem cống giặc ô Qua. Trên đường đi, nàng định tự vẫn nhưng được Phật và người cứu thoát.

Lục Vân Tiên thi đỗ Trạng gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Hai người sống trong hạnh phúc.

Về cốt truyện của hai truyện thơ trên có điểm giống nhau là cùng có ba phần:

a) Gặp gỡ đính ước.

b) Tai biến.

c) Đoàn tụ.

5. Một số câu ca dao và vài đoạn thơ trong Truyện Kiều minh họa cho khả năng phong phú của thể thơ lục bát trong việc biểu hiện tâm trạng và kể chuyện, thuật việc.

Học sinh tự chọn.

6. Lão Hạc của Nam Cao, Bến quê của Nguyễn Minh Châu là truyện ngắn hiện đại, Thầy thuốc giỏi cốt nhắt ở tấm lòng của Hồ Nguyên Trừng và Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là truyện thời trung đại.

Cả hai đều thuộc loại hình tự sự nhưng truyện ngắn hiện đại có nhiều đổi mới so với truyện ngắn thời trung đại về phương thức tự sự, miêu tả. Truyện ngắn hiện đại, các cách trần thuật di chuyển điểm nhìn được sử dụng đa dạng. Cách trần thuật từ ngôn thứ nhất như lão Hạc thường chỉ thấy ở truyện ngắn hiện đại. Cả về xây dựng nhân vật cũng có khác. Nhân vật truyện trung đại thường xuất hiện qua lời kể, qua hành động, qua đối thoại chứ rất ít được thể hiện trực tiếp nội tâm, ít chú trọng khắc họa tính cách riêng vì thế thường thuộc nhân vật loại hình. Trong truyện hiện đại, nhân vật được chú ý khắc họa từ ngoại hình, hành động nhất là nội tâm, qua lời trần thuật, lời đối thoại, độc thoại của nhân vật...

Ghi nhớ: • Thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung với một dạng hình thức văn bản và phương thức chiếm lĩnh đời sống. Nhìn trên tổng thể, sáng tác văn học thuộc ba loại (hay loại hình) là tự sự, trữ tình và kịch. Ngoài ra còn có loại nghị luận, chủ yếu sử dụng các phương thức lập luận.

Thể là dạng thức tồn tại của tác phẩm văn học. Loại rộng hơn thể và bao gồm nhiều thể, nhưng cũng có những thể ở chỗ tiếp giáp của hai loại, mang những đặc điểm của cả hai loại.

Văn học dân gian có một hệ thống thể loại khá phong phú, có thể xếp thành ba nhóm theo loại hình: tự sự, trữ tình và kịch.

Trong văn học trung đại đã hìnli thành một hệ thống thể loại khá hoàn chỉnh và chặt chẽ.

Thơ Việt Nam thời trung đại sử dụng phổ biến nhiều thể thơ có nguồn gốc từ thơ ca Trung Quốc như cổ phong, Đường luật, mà hoàn chỉnh và tiêu biểu nhất là thể thất ngôn bát cú. Đồng thời, các thể thơ có nguồn gốc dân gian, dân tộc như lục bát, song thất lục bát củng được sử dụng ngày càng phổ biến.

Văn xuôi thời trung đại có nhiều thể truyện, kí. Truyện dài thường được viết theo lối chương hồi. Truyện thơ có thể xem là một loại tiểu thuyết bằng thơ, kết hạp cả tự sự và trữ tình. Trong văn học trung dại còn có những thể loại chủ yếu mang chức năng hành chính, như chiếu, cáo, hịch, biểu. Các thể này thuộc loại nghị luận.

Trong văn học hiện đại, các thể loại có nhiều biến đổi sâu sắc. Một số thể loại mới xuất hiện như kịch nói, phóng sự. Nhìn chung, thể loại trong văn học hiện đại hết sức đa dạng, linh hoạt và luôn biển đổi theo hướng ngày càng tự do, không bị gò bó vào các quy tắc cố định, phát huy sự tìm tòi, sáng tạo của chủ thể sáng tác.

Viết bình luận