Soạn bài: Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học

Đề số 1

Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh.

Đề số 2

Hãy phân tích đoạn thơ từ: "Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ" đến "Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn". (Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)

Đề số 3

Phân tích vẻ đẹp của người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta qua đoạn thơ sau đây:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Hải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

(Quang Dũng - Tây Tiến)

ĐỀ SỐ 1: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh.

BÀI THAM KHẢO

Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ. Trong dàn đồng ca của thơ trẻ chống Mĩ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính. Cũng bám sát vào cuộc lao động và chiến đấu anh hùng của con người Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh còn thể hiện được cả một sức mạnh mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là vừa khát khao một tình yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhắc đến những bài thơ nổi tiếng: Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu, Tự hát... và nhất là Sóng - bài này được rút ra từ tập Hoa dọc chiến hào. Có thể nói, Sóng đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.

Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó.

Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiếu chi tiết hình ảnh thì đã bị. cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhuỵ giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tinh chất của tình cảm thơ. Ẩn trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lí do ấy mà khi đọc thơ, điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó.

Đọc bài thơ Sóng, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng, nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuôìi hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển khuây động hồn người đọc tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?

Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu là nhịp 2/3:

Dữ dội / và dịu êm

Ồn ào / và lặng lẽ

thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cầu kì hơn là 1/2/2):

Sóng/ không hiểu/ nổi mình

Sóng/ tìm ra tận bể

Nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng.

Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lôi tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đắp đối nhau về bằng trắc nữa. vế tiếp vế, câu tiếp câu. ớ đây vừa "dữ dội và dịu êm" - "ồn ào và lặng lẽ", ngay đó đã là: "Ôi con sóng ngày xưa - và ngày sau vẫn thế"... cứ thế:

- Em nghĩ về anh em

Em nghĩ về biển lớn

- Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

- Dầu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam.

Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lượn xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, xô đuổi nhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu.

Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế, một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ này lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư, ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng, người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi mệt khám phá về sóng cũng là một khám phá về chính mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái "tôi" Xuân Quỳnh. SóngEm trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định Sóng là cái "tôi" thứ hai của Xuân Quỳnh.

Mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác. Cho nên không thể lược quy riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bắt hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chỉ có thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi.

Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính. Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang yêu bờ đắm đuôi, cuồng nhiệt. Còn nữ sĩ Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất người phụ nữ. Có phải nhà thơ trữ tình thường có thiên hướng áp đặt cái "tôi' của mình vào đô'i tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình:\

Dữ dội và dịu êm

Ôn ào và lặng lẽ

Sóng không liiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể.

Trong khí chất của sóng, thấy có sự hài hòa của các đốì cực. Vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhát, vừa ồn ào nhất, vừa lặng lẽ nhất. Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn. Và đó là khát vọng về sự lớn lao. Vi mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt. Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện "Sóng không hiểu nổi mình" thì dứt khoát "Sóng tìm ra tận bể". Sóng sẽ từ bỏ sự chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.

Đứng trước biển, con người ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình, biển vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biển vẫn thế kia. vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đổì diện với sự bất diệt có thực của biển, người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tình yêu vẫn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Đến khổ thơ thứ ba, sóng lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gổc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biển, những phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa về nguồn góc của sóng. Nhưng nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em củng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau?

"Khi nào ta yêu nhau",

Câu hỏi ấy dường như là băn khoăn của mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng: Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu, người ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta thường thiêng liêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hẹn hò từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế, tình yêu của con người mới trở nên thiêng liêng!

Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: "Con sóng dưới lòng sâu - Con sóng trên mặt nước - Ôi con sóng nhớ bờ - Ngày đêm không ngủ được - Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn tliức". Là lòng thuỷ chung: "Dẫu xuôi về phương Bắc - Dẫu ngược về phương Nam - Nơi nào em cũng nghĩ - Hướng về anh một phương". Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa' đôi: "Ớ ngoài kia đại dương - Trăm nghìn con sóng đó - Con nào chẳng tới bờ - Dù muôn vời cách trở". Là sự khôn cùng của khát vọng: "Cuộc dời tuy dài thế - Năm tháng vẫn đi qua - Như biển kia dẫu rộng - Mây vẫn bay về xa"... Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Đề đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bâ't tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đô'i diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thủy vô chung của thời gian và nhãn tiền là sự vô hạn vô hồi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thây đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muôn hóa vĩnh hằng! Người ta thèm muôn được bâ't tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muốn có mặt mãi trên cõi đời này. Đổ được sông! Đế được yêu! Sông trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ây đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

Bài thơ dẫu đã dừng, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!

(NGUYỄN ĐĂNG MẠNH)

ĐỀ SỐ 2:

Hãy phân tích đoạn thơ dưới đây:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lỏng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay dưa.

Con nhớ anh con, người anh du kích,

Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn,

Chiếc áo nâu suốt một dời vá rách

Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.

Con nhớ em con, thằng em liên lạc

Rừng thưa em băng, rừng rậm em chở

Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc

Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.

Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc

Năm con đau, mế thức một mùa dài

Con với mế không phải hòn máu cắt

Nhung trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta di, đất dã hoá tâm hồn!

(Trích Tiếng hát con tàu - CHÊ LAN VIÊN)

YÊU CẦU

Trên cơ sở hiểu được những nét tổng quát vế bài thơ Tiếng hát con tàu, biết cách phân tích thơ theo đúng đặc trưng thể loại để làm rõ giá trị đặc sắc của đoạn thơ ở cả phương diện nội dung và hình thức. Cụ thể là:

Học sinh có thể trình bày, cảm thụ theo nhiều cách, nhưng cần nêu được:

- Về nội dung: Khát vọng trở về với nhân dân như về với ngọn nguồn đời sống, nỗi nhớ và lòng biết ơn của nhà thơ về những hi sinh thầm lặng lớn lao của nhân dân; Nỗi nhớ và sự gắn bó thiết tha của nhà thơ đối với đất nước.

- Về hình thứơ. Các thủ pháp xây dựng hình ảnh, lối so sánh, biện pháp trùng điệp, giọng điệu tha thiết chân thành và cách khái quát giàu triết lí.

BÀI LÀM

Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ tiêu biếu của nền thơ Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác ở cả trước và sau Cách mạng tháng Tám; ông đã đi từ Điêu tàn đến Ánh sáng và phù sa, từ "chân trời của một người" đến "chân trời của tất cả", "từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui".

Ánh sáng và phù sa (1960) là tập thơ kết tinh nhiều thành tựu của nhà thơ Chế Lan Viên trong hành trình về với cách mạng, với nhân dân và đất nước. Bài thơ Tiếng hát con tàu là một bài thơ đặc sắc. Trong tập thơ nói trên; Nó thể hiện ân tình sâu nặng, những kỉ niệm không thề nào quên đối với nhân dân trong những năm kháng chiến chống Pháp gian lao và anh hùng. Đồng thời, bài thơ còn thể hiện niềm khao khát cháy bỏng của tác giả muốn thoát ra khỏi phạm vi nhỏ bé của cá nhân để đến với chân trời rộng mở, để đến với quần chúng nhân dân và quê hương đất nước. Ý tưởng sâu sắc nói trên của Chế Lan Viên được thể hiện tập trung qua những khổ thơ dưới đây:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối củ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay dưa.

Con nhá anh con, người anh du kích,

Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn,

Chiếc áo nâu suốt một dời vá rách

Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.

Con nhớ em con, thằng em liên lạc

Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ

Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc

Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.

Con nhá mế! Lửa hồng soi tóc bạc

Năm con đau, mẽ' thức một mùa dài

Con với mế không phải hòn máu cắt

Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta di, đất đã hoá tâm hồn!

Đoạn thơ trên trích từ phần thứ hai của bài Tiếng hát con tàu, nhà thơ gợi lại những hình ảnh về nhân dân với lòng biết ơn, với tình cảm sâu nặng trong cuộc kháng chiến chín năm gian khổ, oanh liệt.

Ở khổ đầu của đoạn thơ này, Chế Lan Viên đã dùng một loạt hình ảnh so sánh để khẳng định ý nghĩa sâu xa và niềm hạnh phúc to lớn khi được trở về với nhân dân. Nhà thơ gặp lại nhân dân tựa hồ như "nai về suối củ, cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa", như "Đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa - Chiếc nôi ngừng, bỗng gặp cánh tay đưa... ". Những hình ảnh tác giả dùng để so sánh ở đây đều hết sức bình dị, gần gũi và điều quan trọng nhất là chúng có giá trị gợi cảm, khắc sâu ý tưởng về với nhân dân là về với cội nguồn của sự sáng tạo nghệ thuật. Về với nhân dân là về với người mẹ từng chở che, nuôi dưỡng chúng ta.

Những câu thơ trên đây hấp dẫn người đọc không những bởi những hình ảnh so sánh mà điều quan trọng hơn chính bởi tình cảm thiết tha, chân thành của nhà thơ khi ông ý thức được lẽ sổng của mình, ý thức được cội nguồn sâu xa cho cuộc sông và nghệ thuật.

Ba khổ tiếp theo của đoạn thơ ở đề bài có thể coi là sự thể hiện hoài niệm của nhà thơ về'những hình ảnh của nhân dân với những hi sinh to lớn và thầm lặng. Đôi với Chế Lan Viên, nhân dân hoàn toàn không còn là ý niệm trừu tượng, mà nhân dân chính là những con người, những cuộc đời, những số phận cụ thể riêng biệt. Trong tâm khảm của nhà thơ, nhân dân chính là "người anh du kick","thằng em liên lạc", là bà mế "Lửa hồng soi tóc bạc...". Đấy là những con người sống trong bình dị, nghèo khó, vất vả {"chiếc áo nâu suốt một đời vá rách"). Tuy vậy, họ luôn có một tấm lòng chung thuỷ son sắt, hi sinh thầm lặng vì cuộc kháng chiến vì sự nghiệp của cách mạng. Dẫu qua, "mười năm tròn", thậm chí dẫu qua "suốt một đời" những tấm lòng ấy vẫn chẳng hề phôi pha. Hình ảnh nhân dân đã hiển hiện cụ thể và sinh động qua hình ảnh cảm động của người du kích nghèo khổ, suốt đời bền bỉ chiến đấu. Đêm cuối cùng trước lúc hi sinh, anh cởi lại chiếc áo nâu "suốt một đời vá rách" trao lại cho đồng chí, đồng đội. Nhân dân biểu hiện qua hình ảnh chú bé liên lạc tháo vát, hết lòng vì kháng chiến, vì cách mạng: "Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ - Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc - Mười năm tròn, chưa mất một phong thw". Chiến công của người đội viên liên lạc này đâu phải chỉ có chuyện gian khổ hi sinh, ở một thời điểm, mà còn là sự chiến thắng thời gian một cách kiên trì và bền bỉ suôt cả mười năm đằng đẵng. Nhân dân đặc biệt còn thể hiện qua hình ảnh người mê tóc bạc, thức cả một mùa dài nuôi dưỡng, chăm sóc cho người cán bộ cách mạng... Trong những khổ thơ nói trên, người đọc có thể nhận thây tình cảm thiết tha chân thành, sự gắn bó máu thịt của nhân vật trữ tình đối với những con người đại diện cho nhân dân. Lối xưng hô, cách dùng các đại từ:

Con nhớ anh con

Con nhớ em con

Con nhớ mế...

Khiến cho đoạn thơ giàu giá trị biểu cảm, khắc hoạ sinh động ân tình sâu nặng của nhà thơ đối với nhân dân. Điều này dễ làm chúng ta liên tưởng tới những câu thơ tràn đầy cảm xúc của nhà thơ Tố Hữu khi ông bắt gặp lí tưởng của Đảng, nguyện hoà nhập vào cuộc sông của những người cần lao để tạo nên sức mạnh trong cuộc chiến đấu vì sự nghiệp lớn:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ.

(Từ ấy)

Cách mạng đã tạo nên những cơ hội thuận lợi để các nhà thơ đến với nhân dân rộng lớn. Đôi với Chế Lan Viên - tác giả của những bài thơ nổi tiếng đau buồn và không ít bế tắc trước đây, nhân dân anh hùng, cách mạng vĩ đại và cuộc chiến đấu thần thánh đã tạo nên sự biến đổi sâu sắc trong hồn thơ của ông, đưa lại cho ông những cảm hứng mới, những suy nghiệm mới trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Cái cô đơn, chán chường, đau khổ trước đây đã lùi về quá vãng nhường chỗ cho niềm vui, sự hoà hợp giữa cái "tôi' của nhà thơ và cái "ta" rộng lớn. Các tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960), Những bài thơ đánh giặc (1972), Hái theo mùa (.IQ'l'H đã ra đời sau thời kì Điêu tàn (1973).

Tóm lại, ba khổ thơ vừa phân tích trên đây không chỉ tái hiện một cách sinh động, cụ thể, chân thực hình ảnh của nhân dân với những phẩm chất cao quý gắn bó hi sinh vì cách mạng, vì kháng chiến mà còn bộc lộ nghĩa tình sâu nặng, cảm động của Chế Lan Viên đốì với nhân dân và những năm tháng kháng chiến gian lao, vất vả.

Nhân dân thường đi liền với quê hương đất nước. Theo dòng hoài niệm, cùng với việc nhớ lại những hình ảnh mến thương của nhân dân là nỗi nhớ của nhà thơ đôi với những miền đất xa xăm đã từng gắn bó với cuộc đời tác giả, bằng biết bao kỉ niệm không thể nào quên. Khổ thơ dưới đây mang tính triết lí, khái quát, thông qua những khái niệm của tác giả:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở, chí là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn.

Câu đầu tiên, bằng hình thức điệp, nhà thơ đã gợi ra những miền quê mờ xa, hẻo lánh ẩn hiện trong màn sương giăng và mây phủ. Xa xôi, hẻo lánh nhưng dường như vẫn có vẻ đẹp hấp dẫn của thiên nhiên; Không những chúng chẳng có chút gì xa lạ khiến những người quen sông ở đồng bằng, ở chốn thị thành e ngại mà ngược lại, những vùng đất đó thật thân thương, gắn bó máu thịt với họ. Bởi trong lòng tràn ngập tình thương, sự trân trọng, nên gặp mỗi vùng đất, mỗi làng bản, nhân vật trữ tình đều cảm thấy yêu thương. Như vậy tình cảm nhà thơ, tâm trạng nhà thơ khiến cho những vùng quê xa lạ trở nên gần gũi lạ thường. Nỗi nhớ của Chế Lan Viên ở đây cũng có nét tương đồng với nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng về những vùng đâ't đoàn quân Tây Tiến đã từng sống và chiến đấu: nào là Sài Khao và Mường Lát, nào là Pha Luông và Mường Hịch,.. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong tâm hồn người chiến sĩ Quang Dũng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

(Tây Tiến - Quang Dũng)

Nỗi nhớ ấy cũng có những nét gần gũi với nỗi nhớ của Tố Hữu đôi với quê hương Việt Bấc:

Nhớ gì như nhớ người yên

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lủa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Tliia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Nỗi nhớ thiết tha về đất nước thường được thể hiện trong thơ, bởi vì các nhà thơ có tình cảm sâu nặng đối với đất nước, đổi với những vùng quê mà họ từng sống. Điều này thể hiện khá sinh động một trong những chuyển biến của người nghệ sĩ "từ chân trời của một người đến chân trời của nhiều người" đặc biệt đối với các nhà thơ trong phong trào Thơ mới, mà Chế Lan Viên là một trong sô' những cây bút tiêu biểu.

Đến hai câu thơ:

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn.

Tưởng như tác giả đột ngột dẫn người đọc đến với một triết lí về cuộc sống, về quy luật của đời sôsng tâm hồn. Nhưng thực ra triết lí ấy đã được nhà thơ "chuẩn bị", đúc rút từ ý những câu thơ ở phần trên. Điều đáng lưu ý hơn nữa là ở đây, Chế Lan Viên khái quát, triết lí nhưng không hề khô khan, thậm chí ít có dâ'u hiệu của lí trí, của lí lẽ. Mà ngược lại triết lí xuất hiện và được biểu đạt hết sức tự nhiên, dung dị. Nói đến triết lí khó bỏ qua sự huy động trí tuệ sắc sảo và phép suy luận logic chặt chẽ. Tuy vậy, hai câu thơ nói trên tránh được sự khô khan, bởi triết lí thể hiện qua tình cảm, qua cảm xúc, qua chính những chiêm nghiệm chân thành của nhà thơ. Bởi vậy, những câu thơ này, một mặt vừa chinh phục lí trí của người đọc, vừa khơi dậy trong họ những ấn tượng, những kỉ niệm về những vùng quê đã qua và bao con người bình dị, thân thương. Bằng cảm xúc, bằng tình cảm, Chế Lan Viên đã khắc hoạ sinh động một quy luật của đời sống tâm hồn khi khách thể đã hoà nhập với chủ thể, sự sống ở bên ngoài được soi bóng, in dấu vào đời sống của mỗi con người, nó trở thành một phần của đời sông bên trong, thành một mảng của tâm hồn. "Đất đã hoá tâm hồn” là như thế. Đúng như ông Nguyễn Văn Long đã khẳng định trong sách Đề ôn luyện lớp 12 PTTH môn Văn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1994.

Đoạn thơ ở đề bài phần nào có thể coi là đoạn thơ kết tinh nghệ thuật của bài Tiếng hát con tàu. Nó thế hiện một cách cảm động, hấp dẫn một cách chân lí lớn của đời người và của nghệ thuật, đó chính là con đường trở về với cội nguồn nhân dân - nhân dân đó bình dị, anh hùng. Đấy chính là con đường để mỗi nghệ sĩ có thể đi tới những chân trời mới bao la, bát ngát trong sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật... Đoạn thơ vừa phân tích cũng khá tiêu biểu cho phong cách thơ Chế Lan Viên ở một giai đoạn mới, vừa kế thừa xuất sắc những thành công nổi bật của một số tập thơ thời kì trước, vừa có sự mới mẻ đáng ghi nhận: giàu chất suy tưởng và trí tuệ, có nhiều cách tân trong xây dựng hình ảnh và sử dụng ngôn ngữ... Đoạn thơ này nói riêng và bài thơ Tiếng hát con tàu nói chung báo hiệu sự ra đời của một loạt bài thơ tiếp theo của nhà thơ Chế Lan Viên trong những năm tháng gian lao mà hào hùng của cả dân tộc ở cuộc kháng chiến chông Mĩ cứu nước.

(Học sinh Nguyễn Thế Lan Phương)

Viết bình luận