Soạn bài: Tuần 10 - Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế trong một gia đình trí thức cách mạng. Cha là Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều) - nhà lí luận phê bình văn học mác xít nổi tiếng giai đoạn 1930 - 1945. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm trở về miền Nam tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nựớc. Từ chiến khu Trị Thiên vào hoạt động trong nội thành Huế, từng bị địch bắt giam. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, ông được giải thoát và lại lên chiến khu. Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu làm thơ từ thời kì này và là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Sau năm 1975, ông tiếp tục hoạt động văn nghệ và công tác chính trị, giữ nhiều trọng trách. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2000.

Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007).

2. Đoạn trích là phần đầu chương V có tên Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng - bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị miền Nam. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, họ đứng dậy xuống đường đấu tranh hoà nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Mặt đường khát vọng là một trong những trường ca tiêu biểu viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

II. HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Đoạn trích có hai phần.

- Phần một: đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm.

- Phẩn hai: tập trung thể hiện tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".

Sợi dây liên kết giữa hai phần chính là mạch cảm xúc của tác giả về đất nước, đất nước hiện lên gần gũi, thân thiết, gắn bó với đời sống của con người, được nhìn nhận với bề dày lịch sử, văn hoá truyền thống. Đất nước trở thành đối tượng thẩm mĩ, tạo sắc thái tình cảm sâu sắc, ấn tượng với người đọc.

2. Mở đầu đoạn trích là lời tự sự, giãi bày, lời tâm tình của tác giả khẳng định đất nước đã có từ lâu lắm. Sự gắn bó, gần gũi của con người với đất nước đã được thể hiện qua lời kể tự nhiên, bộc lộ những rung động từ trong tâm hồn, trái tim con người. Cách xưng hô "ta" thể hiện một giọng điệu suy tư, chất chứa những chiêm nghiệm về đất nước. Đất nước gắn liền với đòi sống vật chất, tinh thần của mỗi người, bất nguồn từ nhũng gì gần gũi, thân thiết nhất.

Trong cảm nhận của Nguyền Khoa Điềm, đất nước bước ra từ những trang cổ tích huyền thoại diệu kì, được khơi nguồn lừ truyền thống phong tục tập quán. Những câu thơ vừa như giãi bày, vừa như trò chuyện bằng một giộng gần gũi, thân thiết. Tác giả đã sử dụng nhuần nhuyễn chất liệu văn hoá dân gian. Điều này đã khiến cho mỗi câu thơ đều như gọi lại truyền thống văn hoá, lịch sử của đất nước, dân tộc.

"Ngày xửa ngày xưa" là một cách diễn đạt làm sống lại không gian của những câu chuyện cổ, những hoàng tử, công chúa, những em bé mổ côi, những con người đôn hậu, chất phác,... Từ "cái" được tác giả sử dụng rất tài tình, gợi nên sự thân thương, gần gũi của những trang cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm như kéo quá khứ về gần với hiện tại. Hình ảnh "miếng trầu" bắt đầu câu chuyện, khơi nguồn giao tiếp từ lâu đã ăn sâu vào tâm linh của người Việt Nam. Cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước là cái nhìn xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại. Đất nước được nhìn trong cả một quá trình, từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành. Hình ảnh đất nước gắn liền truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất của dân tộc. Hình ảnh dân trồng tre đánh giặc gắn liền với huyền thoại Thánh Gióng trong lịch sử.

Những câu thơ viết theo thể thơ tự do, dài ngắn xen kẽ linh hoạt thể hiện những cung bậc cảm xúc của tác giả. Đất nước gắn liền với những hình ảnh bình dị, gần gũi mà thân thiết, thiêng liêng: đó là hình ảnh của mẹ, là nghĩa tình của cha, là hình ảnh quê hương trong lao động sản xuất. Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không trừu tượng, xa xôi mà gần gũi, thân thiết. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận tinh tế, những rung động tận đáy lòng trong những câu thơ ấm tình người, tình dân tộc. Câu chuyện gừng cay muối mặn là câu chuyên cảm động về tình nghĩa con người. Trong cuộc đời vất vả của cha, trong nỗi lo toan của mẹ có vị cay của gừng, vị mặn của muối. Nhà thơ đã cảm nhận được tất cả những nhọc nhằn, khổ đau từ chính mồ hôi, nước mắt của con người. Cũng từ những hình ảnh như thế, đất nước tồn tại vũng bền, gần gũi mà thiêng liêng.

Hình ảnh cái kèo cái cột giản dị của làng quê Việt Nam bước vào thơ Nguyễn Khoa Điềm trở nên sang trọng, cao quý, gắn trên mình hai chữ đất nước thiêng liêng, tự hào. Đất nước trưởng thành từ trong cuộc sống lao động vất vả, gian lao. Đất nước trải qua nhũng thăng trầm của lịch sử vẫn sáng ngời vẻ đẹp trường tồn.

Nghệ thuật chơi chữ đầy tài hoa của Nguyễn Khoa Điềm đã tách hai thành tố "đất" và "nước" rồi lại kết nối chúng lại trong một chỉnh thể "đất nước" thống nhất, trong mối dây giao hoà, nhuần nhị. Đất nước được diễn giải bằng nhũng hình ảnh cụ thể, khiến người đọc cảm nhận được một cách sâu xa nhất, sống động nhất. "Đất là nơi anh đến trường", là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc". "Nước là nơi em tắm", là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi",... Đất nước vừa cụ thể, gần gũi, vừa kì vĩ, lớn lao ("Đất Nước là nơi ta hò hẹn - Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"). Nhũng chất liệu văn học dân gian tạo nên âm hưởng độc đáo cho mỗi lời thơ. Nguyễn Khoa Điềm lấy con chim phượng hoàng để miêu tả dáng đất, mượn con cá ngư ông để diễn tả sức nước mạnh mẽ. Câu thơ ắp đầy niềm tự hào, kiêu hãnh của con người Việt Nam về cái rộng dài, bao la, kì vĩ của đất nước mình.

Trong cảm nhận ấy, Nguyễn Khoa Điềm có những câu thơ rất mực tinh tế, tài hoa. Những câu chuyện Nguyễn Khoa Điềm tâm sự về đất nước đều gắn liền với đời sống sinh hoạt, tinh thần của con người. Hình ảnh đất nước thiêng liêng trở nên gần gũi hơn bao giờ hết. Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận hình tượng đất nước trong sự hoà điệu với tình yêu con người. Hình ảnh "khăn" tạo ấn tượng thẩm mĩ độc đáo, không chỉ gợi nhắc hình ảnh khăn thương, khăn nhớ trong ca dao mà còn khắc sâu trong tâm khảm con người về một đất nước yêu thương, gần gũi, gắn bó máu thịt. Như thế, từ một câu chuyện riêng tư, thầm kín của tình em - tình anh, của yêu thương, nhung nhớ, người ta cũng nhìn thấy ở đó hình hài và hồn cốt của đất nước mình với những xúc cảm máu thịt nhất.

Đất nước được cảm nhận theo chiều rộng của không gian, chiều dài của thời gian, bề dày của truyền thống lịch sử. Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến những câu chuyện lịch sử của ngàn đời (Lạc Long Quân, Âu Cơ, ngày giỗ Tổ Hùng Vương) bằng một giọng thơ đầy thành kính. Ông mượn cái đằng đẵng của thời gian, cái mênh mông của không gian để đo sự dài rộng, lớn lao, kì vĩ của đất nước mình. Đất nước cũng là nơi hội ngộ, gặp gỡ, sum vầy. Những câu thơ như đánh thức trong lòng mỗi con người tình yêu đất nước, niềm tự hào về truyền thống của cha ông, đặt ra trách nhiệm cho mỗi người. Đất nước là sự tổng hoà của các yếu tố: văn hoá, lịch sử, địa lí, là sự gắn bó giữa cái chung và cái riêng, cá nhân và dân tộc, các thế hệ tiếp nối nhau. Hình tượng đất nước bởi vậy, hiện lên vừa cụ thể vừa khái quát. Nguyễn Khoa Điềm đã rút ra ý nghĩa khái quát, khẳng định hình ảnh đất nước bất tử trong lòng mỗi người. Ông phát hiện ra sự gắn kết tuyệt vời giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc. Đất nước là máu thịt của mỗi người và phải có sự gắn bó thực sự sâu sắc, chân thành người ta mới thấy được sự hiển hiện của đất nước trong hình ảnh mỗi con người. Tác giả phát hiện những quy luật ngàn đời của tình yêu đất nước, từ trái tim một người đến trái tim của mọi người, từ tình yêu của anh của em, của chúng ta đến tình yêu đất nước. Sự vẹn tròn, to lớn của đất nước được tạo dựng từ chính tình yêu bình dị, thân thiết của anh, em, của mỗi người. Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện ra cái thiêng liêng, cao cả ngay từ cái giản dị, gần gũi nhất.

Từ hiện tại, Nguyễn Khoa Điềm hướng tới tương lai để phát hiện bước trưởng thành, đi lên của đất nước. Đất nước ắp đầy niềm tin, khát vọng của những thế hệ nối tiếp: từ anh em, từ chúng ta đến đời con, đời cháu. Sự đắp bồi, nuôi dưỡng qua nhiều thế hệ con người đã "Làm nên Đất Nước muôn đời". Nguyễn Khoa Điềm gọi tên đất nước mình bằng tất cả niềm tin và lòng tự hào mãnh liệt, ở đó, con người gắn bó, san sẻ, sẵn sàng hoá thân cho đất nước. Chỉ khi thực sự hoá thân vào đất nước, người ta mới nhận ra đất nước mình vĩ đại, cao quý đến nhường nào. Nhà thơ không chỉ rung động tận đáy lòng mà còn lặn sâu đến tân cùng cái hồn dân tộc để dựng xây nên tượng đài đất nước với sự thành kính thiêng thiêng, với xúc cảm tha thiết, sâu sắc.

3. Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" đã chi phối, quy tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc, mới mẻ về địa lí, lịch sử, văn hoá của đất nước. Qua ngòi bút của nhà thơ, các hình ảnh về địa lí, lịch sử, những danh thắng của dân tộc đều in đậm trong tâm trí của mọi người dân đất Việt. Đặc sắc ở chỗ Nguyễn Khoa Điềm nhận ra sự gắn bó, hài hoà giữa con người và đất nước mình. Mỗi tên đất, tên sông, mỗi tên núi, tên làng đều ẩn chứa trong đó cái dáng hình xứ sở, đều chất chứa tình người nặng sâu. Chính điều đó đã tạo nên chiều sâu trong tứ thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Chưa có nhà thơ nào lí giải những địa danh quê hương mình ngọt ngào, đằm thắm như thế. Chuyện người vợ nhớ chồng, chuyện những người yêu nhau, những người học trò nghèo, nhũng người dân bình dị,... đều góp phần tạo nên sông núi, non nước. Giọng điệu thơ chậm rãi, ôn tồn, vừa như thủ thỉ, vừa giàu chất chính luận. Từ nhũng khái quát trên, tác giả đưa đến một nhận định chung: đất nước là bất tử, là vĩnh hằng, là trường tồn, vĩnh cửu.

Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" là một tư tưởng nổi bật và phổ biến ở các bài thơ thời kì chống Mĩ. Chính tư tưởng đó đã liên kết tất cả tinh thần, sức mạnh, trí tuệ của con người Việt Nam để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù vì độc lập, tự do, thống nhất của đất nước. Độc lập, tự do, thống nhất nước nhà cũng chính là hạnh phúc của mỗi cá nhân con người, vì đất nưóc này là "Đất Nước của Nhân dân".

Bài văn tham khảo:

Lịch sử văn học đã từng ghi dấu rất nhiêu tác phẩm ra đời ca ngợi đất nước, ca ngợi nhân dân. Nhưng trong số đó, không nhiều tác phẩm có được quan niệm mới mẻ như trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm - một sự nhận thức tiến bộ về công lao của nhân dân đối với lịch sử. Công lao ấy được quy tụ lại trong quan điểm "Đất Nước này là Đất Nước nhân dân", một tư tưởng mới thể hiện tập trung và sâu sắc trong đoạn thơ Đất Nước (trích phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng).

Đất nước - hai tiếng gần gũi, thiêng liêng và tha thiết đã từng theo mỗi chúng ta đi suốt cuộc đời. Nó thân thuộc vô cùng bởi được xây nên từ tình cảm yêu thương của mỗi chúng ta. Ai đã từng một lần định nghĩa về đất nước? Khái niệm ấy bao la lắm mà sao vẫn cảm thấy thân quý vô cùng. Ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận, cắt nghĩa về đất nước:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..."

mẹ thường hay kể

"Đất Nước" của nhà thơ được cảm nhận bằng thời gian quá khứ xa xăm. Đất nước ấy là thế giới của ca dao, cổ tích. Chẳng ai biết được nó có tự bao giờ, chỉ biết từ khi có miếng trầu, khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc, đất nước đã có rồi. Đất nước được hình thành từ sự vất vả, yêu thương của cha, của mẹ. Nguyễn Khoa Điềm đã dùng toàn bộ là chất liêu dân gian mà tạo nên "Đất Nước" của mình. Đất nước ấy vẫn có chiều dài của lịch sử nhưng không phải là lịch sử của những vương triều mà là lịch sử của nhân dân được ghi bằng cổ tích, bằng ca dao và bằng phong tục.

Sau phần cảm nhận về hai từ "Đất Nước" thiêng liêng và cao quý, Nguyễn Khoa Điềm tập trung thể hiện tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân".

Đất nước của nhân dân theo sự cảm nhận của nhà thơ là đất nước được dệt bởi một không gian văn hoá. Đó là một "không gian mênh mông" mở ra cái mênh mang về chiều kích của đất nước mình. Không gian ấy có khi gần gũi:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Có khi đậm màu sắc huyền thoại:

Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"

Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"

Vận dụng triệt để thủ pháp nghệ thuật "chiết tự" (tách chữ) và kiểu câu định nghĩa, nhà thơ đã dựng lên không gian đất nước khái quát mà thống nhất, hoà hợp vô cùng. Nó không phải là thứ không gian được đo bằng những phép đo thường lệ. Nó là không gian mà ở đó cái chung thống nhất với cái riêng, cộng đồng hoà hợp từ mỗi tính cách, không gian của hiện thực và huyền thoại. Không gian ấy không đo đếm được. Nó mênh mang như tâm tưởng không giới hạn của con người.

Nhưng "Đất Nước" ấy còn phải có chiều dài lịch sử. Thời gian đằng đẵng thống nhất với không gian mênh mông. Thời gian ấy được dệt bằng huyền thoại.

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Đất nước được gọi về từ phía cội nguồn với những khái niệm mà không người dân đất Việt nào không biết: chim Lạc, giống Rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trứng, vua Hùng, giỗ Tổ,... Những câu thơ đã chạm nên vẻ đẹp vừa chân thực lại vừa huyền thoại của đất nước. Nó còn gợi được ý thức về tổ tiên nòi giống. Từ đó mà nghĩ về đất nước, mỗi người sẽ tự ý thức về trách nhiệm của mình bởi:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Chúng ta biết Mặt đường khát vọng là một bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam. Nhưng để nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ từ đó ý thức được sứ mệnh của mình, xuống đường hoà nhịp cùng cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc thì trước hết các thế hệ thanh niên phải có ý thức về dân tộc mình. Đó là ý thức về giống nòi, về niềm tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức về một quá khứ anh hùng của cha ông. Chỉ có như vậy, tuổi trẻ mới thực sự gánh vác được sứ mệnh lịch sử của thế hệ mình.

Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa nhiều khái niệm nhưng khái niệm nào cũng được ông hình tượng hoá nên nó cứ nhẹ nhàng mà thấm đậm hồn ta. Ở đoạn thơ tiếp sau này, tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" được thể hiện qua cái nhìn độc đáo và mới mẻ về thiên nhiên.

Chẳng có gì xa lạ, thiên nhiên được gọi ra bằng những cái tên gần gũi, quen thuộc vô cùng: những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những nút Bút, non Nghiên hay đảo Con Cóc, Con Gà trên Vịnh Hạ Long,... Thiên nhiên ấy vẫn là niềm say mê của muôn đời nhưng nếu nó không được thổi vào đó những cuộc đời, những tâm hồn, những số phận thì chắc gì đã khiến con người say đắm đến ngàn năm. Vậy thiên nhiên làm sống lại những cuộc đòi hay chính những cuộc đời, những số phận đã tạo nên "hồn sống" cho thiên nhiên? Cũng vậy, đất nước làm nên những cuộc đời hay chính những cuộc đời thầm lặng đang điểm vào những tên núi, tên sông kia, đã làm nên đất nước? Và còn nữa, những cuộc đời đã nên núi nên sông kia chỉ là những cái tên rất nhỏ trong hàng triệu triệu cuộc đời đã, đang và sẽ làm ra đất nước. Cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm về thiên nhiên quả thực sâu sắc biết bao.

Nhưng cũng phải đến đây, đến tận đoạn cuối này, tác giả mới khẳng định vai trò lịch sử của nhân dân để hoàn thiện tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trong phần này, tác giả đã không nhắc đến những anh hùng đã từng rạng danh trong lịch sử để dành trọn những trang thơ cho hàng triệu những anh hùng vô danh. Giọng thơ vẫn là giọng triết lí thâm trầm mà sâu sắc:

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái con trai bằng tuổi chúng ta

Câu thơ giản dị mà đánh thức suy tư của cả một thế hệ về đất nước. Những con người vô danh bình dị ngàn đời nay vẫn "cần cù làm lụng" và đánh giặc giữ nước chẳng kể gái, trai; đàn ông, đàn bà; người già hay con trẻ:

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Không chỉ đấu tranh và xây dựng quê hương, làm nên lịch sử, nhân dân còn là những người âm thầm gìn giữ những nét vãn hoá của dân tộc. Họ truyền hạt lúa, chuyền lửa qua mỗi nhà. Họ gánh theo tên làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân. Họ đắp đập be bờ, trồng cây cho người đời sau hái trái,... Họ đã đem cả cuộc đời để dựng xây và phát triển những giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ tương lai.

Thể hiện tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân", đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã đánh giá thật khách quan và sâu sắc vai trò của nhân dân trong lịch sử. Nhân dân là chủ nhân của lịch sử, chủ nhân của đất nước. Chân lí ấy đã, đang và sẽ mãi mãi không bao giờ thay đổi không chỉ đối với dân tộc chúng ta.

(Theo Ngô Văn Tuần)

4. Đoạn trích Đất Nước có thể coi là chương hay nhất thể hiện sự cảm nhận và lí giải của tác giả về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của trường ca Mặt đường khát vọng, đó là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả là khá chặt chẽ nhưng cũng lại rất phóng túng. Đoạn trích mở đầu bằng định nghĩa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian - lịch sử, qua bề rộng của không gian - lãnh thổ, địa lí và qua chiều sâu văn hoá - phong tục, lối sống, tính cách của người Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc. Từ ba bình diện này, những câu thơ giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Mạch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy nhiệt hứng, đồng thời lại cũng có những vang động sâu xa.

- Đoạn trích sử dụng rất nhiều chất liệu văn hoá dân gian. Trong phần đầu, bằng hình thức trữ tình - chính luận, nhà thơ đã trình bày định nghĩa, cảm nhận về đất nước bằng cổ tích, bằng ca dao. Định nghĩa nhưng không phải bằng những khái niệm khô khan mà bằng một cuộc trò chuyện gần gũi và thân mật. Mức độ đậm đặc của các chất liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại,... tạo cho đoạn thơ đầu một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..."

mẹ thường hay kể.

gần gũi biết bao.

Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng chọn chất liệu từ văn hoá dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bởi văn hoá dân gian là do nhân dân sáng tạo, gìn giữ và lưu truyền. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo về đất nước.

Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi chúng ta. Nó dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và cũng bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, nhân dân trong mỗi chúng ta.

- Phần sau của đoạn trích (từ câu "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu" đến hết đoạn trích) là phần tập trung làm nổi bật tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trong phần này, tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn nhân và đưa đến những phát hiện sâu và mới của tác giả về địa lí, lịch sử và văn hoá của đất nước:

Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước

những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút,

non Nghiên

Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái,... vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó không phải là sản phẩm của tạo hoá mà là tâm hồn, là số phân của nhân dân. Chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phân của con người trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Người ta yêu thích nó, say mê với nó, đúng là ở cái phần tâm hồn kia. Cái nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát đầy thấm thía:

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...

Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu thương sâu sắc, thuỷ chung tình nghĩa. Là những con người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. Là những con người "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ "đã làm ra Đất Nước". Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ những nét văn hoá của dân tộc qua bao bão táp phong ba của lịch sử.

Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định :

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.

Đó là một chân lí. Một chân lí đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, mới cất lên thành những tuyên ngôn đầy nhiệt hứng và có sức vang động sâu xa.

Làm nên sự thành công của đoạn trích Đất Nước, ngoài sự độc đáo đầy phóng túng của thể thơ tự do còn phải kể đến tài năng xuất sắc của Nguyên Khoa Điềm trong việc tiếp thu và sử dụng những chất liệu văn hoá dân gian. Đoạn trích là sự hoà hợp nhuần nhuyễn giữa hình thức trữ tình - chính trị với các chất liệu từ ca dao, cổ tích, huyền thoại,...

Viết bình luận