Soạn bài: Tựa "Trích diễm thi tập"

Câu 1

Theo Hoàng Đức Lương, sáng tác thơ văn của người xưa không được lưu truyền đầy đủ cho đời sau là vì nhiều lí do:

- Một là thơ ca là nghệ thuật tinh tế, nên không phải bất kì ai cũng hiểu và yêu quý, do đó mà ít người quan tâm sưu tầm thơ ca khiến thơ ca phải thất lạc nhiều.

- Hai là các bậc danh nho nếu làm quan to thì bận việc không rỗi thì giờ, nếu làm quan nhỏ cùng những người lận đận về việc thi cử thì không để ý đến thơ ca khiến thơ ca không được lưu truyền hết ở đời.

- Ba là cũng có người thích thơ văn nhưng ngại khó nên đều làm được nửa chừng rồi bỏ dở không chịu đeo đuổi đến cùng.

- Bốn là sách vở về đời Lí - Trần phần nhiều là kinh sách nhà chùa được khắc vào ván để truyền mãi lại đời sau, còn thơ ván nếu chưa được lệnh vua không ai dám khắc ván lưu hành.

Câu 2

Để sưu tầm thơ văn của tiền nhân, Hoàng Đức Lương đã tìm quanh hỏi khắp, nhặt nhạnh ở giấy tàn, sách nát để thu lượm lại.

Câu 3

Do xót Xa thương tiếc cho di sản thơ văn của cha ông bị thất lạc, tự thấy trách nhiệm cần phải sưu tầm lại cho đời bây giờ và đời sau nữa có thể học hỏi từ di sản đó mà không phụ thuộc vào thơ văn của người Trung Quốc nên Hoàng Đức Lương đã vượt khó khăn để biên soạn ra tuyển tập thơ này.

Câu 4

Trong phần mở đầu bài Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã khẳng định:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”

Ở đây, một lần nữa Hoàng Đức Lương trong lời tựa Trích diễm thi tập cũng đã có đến hai lần nhắc đến nền văn hiến của dân tộc:

“Nước ta từ nhà Lí, nhà Trần dựng nước đến nay, vẫn có tiếng là nước văn hiến...”.

“Than ôi! Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm...”.

Cả hai văn bản trên đều xuất hiện ở thê kỉ XV sau chiến thắng giặc Minh. Lúc này chính là lúc tư tưởng độc lập dân tộc, ý thức tự chủ, tự cường của nhân dân ta đang ở cao trào. Cả hai văn bản đều phản ánh ý thức độc lập dân tộc và niềm tự hào về nền văn hiến dân tộc của nhân dân ta đang trên đà khẳng định dân tộc tuy rằng bài tựa Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương không có tầm vóc lịch sử vĩ đại như Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi.

Viết bình luận