Soạn bài: Bài 18 - Tìm hiểu chung về văn nghị luận

1. Nhu cầu nghị luận

a) Trong đời sống, ta thường gặp các vấn đề và các câu hỏi theo kiểu sau đây:

- Vì sao em đi học?

- Vì sao con người cần phải có bạn bè?

- Vì sao con cái phải hiếu thuận với ông bà, cha mẹ?

- Vì sao phải giữ cho trái đất sạch và xanh?

- Vì sao phải luôn tu bổ và bảo vệ đê điều?

- Vì sao phải “học lễ” trước, “học văn” sau?

- Vì sao phải siêng năng, cần mẫn trong học tập?

b) Gặp các vấn đề và các câu hỏi loại đó, ta không thể trả lời bằng các kiểu văn bản kể chuyện, miêu tả, hoặc biểu cảm vì các câu hỏi đó đòi hỏi phải dùng lí lẽ kèm theo những dẫn chứng xác đáng để bày tỏ một tư tưởng, một quan điểm nào đó thật rõ ràng mạch lạc, có sức thuyết phục cao.

c) Để trả lời các câu hỏi như thế, hàng ngày trên báo chí, qua đài phát thanh, truyền hình, ta thường gặp các kiểu văn bản nghị luận như các ý kiến nêu ra để tranh luận một vấn đề, các bài xã luận, các bài phát biểu ý kiến...

2. Thế nào là văn bản nghị luận?

Đọc văn bản đã cho: Chống nạn thất học.

TRẢ LỜI CÁC CÂU HỎI

a) Bác Hồ viết bài này nhằm mục đích kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam cùng đi học để ai ai cũng biết đọc, biết viết chữ nước nhà.

Để thực hiện mục tiêu ấy, bài viết của Bác nêu ra các ý kiến sau: lên án chính sách ngu dân của bọn thực dân Pháp cai trị trước đây. Nay đã có độc lập ta phải biết đọc, biết viết để có kiến thức tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà. Mọi người phải giúp nhau học tập.

Những ý kiến ấy được diễn đạt thành các luận cứ và luận điểm sau:

- Thực dân Pháp không muốn dân ta biết chữ. Câu văn mang luận cứ này là:

“Khi xưa Pháp cai trị, chúng thi hành chính sách ngu dân”.

- Nay ta đã có độc lập, mọi người đều phải học. Câu văn mang luận điểm này, luận điểm chính của bài là:

“Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí”.

Đầu đề của bài văn cũng thể hiện rõ luận điểm của người viết: “Chống nạn thất học”.

b) Để ý kiến có sức thuyết phục, bài viết đã nêu lên những lí lẽ nào?

- Để xác định chính sách ngu dân của thực dân Pháp, Bác đã nêu lí lẽ: chúng hạn chế mở trường, chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ lừa dối và bóc lột dân ta.

- Lí lẽ này còn kèm theo dẫn chứng đầy sức thuyết phục: 95 phần trăm dân số Việt Nam thất học, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ.

- Để kêu gọi mọi người phải học tập, để góp phần vào việc nâng cao dân trí, Bác đã nêu rõ: Vì sao ai cũng phải biết đọc, biết viết ? (“mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết”).

Việc chống nạn mù chữ có thể thực hiện được bằng cách mọi người đều tham gia dạy chữ và học tập lẫn nhau. Đó cũng là biện pháp rất thiết thực mà Bác đã đề ra kèm theo với luận điểm nói trên để hướng dẫn toàn dân cùng tham gia vào việc chống nạn thất học.

c) Trong trường hợp này tác giả chỉ có thể thực hiện mục đích kêu gọi toàn dân cùng tham gia vào việc chống nạn thất học bằng thể văn nghị luận, không thể dùng các thể văn kể chuyện hay miêu tả, biểu cảm được, vì lời kêu gọi phải dùng lí lẽ để nêu bật vấn đề, để có sức thuyết phục cao làm cho mọi người đều hiểu, đều thấy là đúng là hay và cùng hăng hái thực hiện.

Ghi nhớ:

  • Trong đời sống, ta thường gặp văn nghị luận dưới dạng các ý kiến nêu ra trong cuộc họp, các bài xã luận, bình luận, bài phát biểu ý kiến trên báo chí...
  • Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Muốn thế, văn nghị luận phải có luận điểm rõ ràng, có lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục.
  • Những tư tưởng, quan điểm trong bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống thì mới có ý nghĩa.

LUYỆN TẬP

1. Đọc bài văn cần tạo ra thói quen tốt trong đời sống xã hội và trả lời các câu hỏi:

a) Đây là một bài văn nghị luận vì trong đó tác giả đã dùng lí lẽ để nêu lên ý kiến của mình về một vấn đề xã hội.

b) Ý kiến đề xuất của tác giả: cần chống lại những thói quen xấu và tạo ra những thói quen tốt trong đời sống xã hội.

Ý kiến đó được thể hiện trong các câu sau đây: đầu đề bài văn; “Cho nên mỗi người, mỗi gia đình hãy tự xem lại mình để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội”.

Để thuyết phục người đọc, tác giả nêu ra các lí lẽ sau đây:

- Có thói quen tốt và thói quen xấu;

- Có người biết phân biệt tốt và xấu, nhưng vì đã thành thói quen nên rất khó bỏ, khó sửa;

- Tạo được thói quen tốt là rất khó, nhưng nhiễm thói quen xấu thì dễ.

Các dẫn chứng kèm theo:

- Thói quen tốt: luôn dậy sớm, luôn đúng hẹn, giữ lời hứa, luôn đọc sách...

- Thói quen xấu: hút thuốc lá, hay cáu giận, mất trật tự, mất vệ sinh (gạt tàn thuốc ra nhà, vứt rác bừa bãi), ném cả mảnh thủy tinh vỡ ra đường làm người khác bị thương...

c) Bài văn nghị luận này nhằm giải quyết một vấn đề có thực trong xã hội: đó là vấn đề ăn ở mất vệ sinh, không có ý thức thu gom rác vào một chỗ làm ô uế môi trường sống.

Ta thấy vấn đề tác giả nêu ra là đúng đắn. Mỗi người đều phải suy nghĩ để bỏ thói quen xấu, tạo nên các thói quen tốt.

2. Bố cục bài văn

Bài này chỉ có hai phần:

- Phần thứ nhất: từ đầu đến chỗ “chảy máu chân rất nguy hiểm”.

Phần này bàn luận và chứng minh về các thói quen tốt và xấu (chủ yếu là nói về các thói quen xấu) trong xã hội.

- Phần thứ hai: kết luận vấn đề.

3. Sưu tầm đoạn văn nghị luận và chép vào vở.

Sau đây là một ví dụ về một đoạn văn nghị luận bàn về Truyện cười:

“Truyện cười là loại truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống, trong hành vi của người đời.

Trong truyện cười, những hiện tượng đáng cười luôn luôn tự phơi bày ra dưới dạng tức cười, khiến người nghe (hoặc người đọc) bật cười.

Cái đáng cười, xét chung, là cái trái tự nhiên, cái không hợp với lẽ thường... Nó có thể nảy sinh ra từ những sự hiểu lầm, sự lầm lỡ, hớ hênh thường tình, hoặc do những nhược điểm thông thường, những khiếm khuyết ai cũng có thể có. Cái cười do những điều này gây ra thường thiên về ý nghĩa mua vui. Nhưng nếu cái đáng cười gắn với những thói xấu thì cái cười do nó gây ra, ngoài ý nghĩa mua vui còn có ý nghĩa phê phán”.

4. Bài văn Hai biển hồ có hai phần:

Phần đầu: Từ đầu cho đến “nước trong hồ luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú, con người”. Phần này mang nặng tính tự sự vì chủ yếu là kể về hai biển hồ ở Palextin.

Phần sau: là phần còn lại. Phần này mang tính nghị luận vì nó dùng lí lẽ để nêu lên một định lí của cuộc sống: con người phải biết chan hòa, chia sẻ với mọi người xung quanh mới thực sự có hạnh phúc.

Tóm lại đây là văn bản nghị luận viết theo lối quy nạp mà phần tự sự ở đầu đoạn văn chính là dẫn chứng được đưa ra trước để rồi từ đó rút ra một suy nghĩ, một định lí trong cuộc sống con người.

Viết bình luận