Soạn bài: Tuần 28 - Người cầm quyền khôi phục uy quyền (trích Những người khốn khổ)

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Vích-to Huy-gô (1802 - 1885) là một thiên tài của văn học Pháp và thế giới. Thời thơ ấu, ông phải trải qua những giằng xé trong tình cảm do giữa cha và mẹ ông có mâu thuẫn. Tuy nhiên với trí thông minh và năng khiếu đặc biệt của một cậu bé được coi là "thần đồng", Huy-gô đã tận dụng được kho sách quý báu cùng sự giáo dục sáng suốt của mẹ, cũng như bao ấn tượng mãnh liệt từ những chuyến hành trình vất vả theo cha chuyển quân từ nơi này đến nơi khác. Đó là những trang sách - trang đời đầy khắc nghiệt và quý giá đối với Huy-gô. Nó thực sự là những ấn tượng sâu sắc, là bước khởi đầu của một thiên tài.

Huy-gô sống trong một thế kỉ đầy bão tố cách mạng. Vì thế mà những sáng tác của ông là những "tiếng vọng âm vang của thời đại". Huy-gổ cũng là một người suốt đời hoạt động chính trị và xã hội tích cực, sôi nổi.

Tên tuổi Huy-gô đã được cả thế giới ngưỡng mộ, không chỉ vì những kiệt tác văn chương mà còn do những hoạt động không ngừng nghỉ của ông vì sự tiến bộ của loài nguời.

2. Những người khốn khổ được Huy-gô chia làm năm "Phần", trong đó, có bốn nhân vật được lấy tên để đặt tiêu đề cho bốn phần. Tuy xuất hiện ngay từ đầu truyện và là nhân vật trung tâm án ngữ cho tới trang cuối cùng, nhưng tên Giăng Van-giăng lại được đặt cho Phần thứ năm. Còn tên Phăng-tin được lấy đặt cho Phần thứ nhất. Phần thứ hai mang tên Cô-dét. Phần thứ ba mang tên Ma-ri-uýt. Từ cách bố trí này, ta có thể suy luận: có lẽ, khi mở đầu truyện bằng nhan đề Phăng-tin, nhà văn muốn coi nàng như là một hình ảnh tiêu biểu có ý nghĩa đặt vấn đề cho cuốn tiểu thuyết xã hội này, và tên Giăng Van-giăng nằm ở phần kết thúc - như một tổng kết về giải pháp xã hội của toàn bộ thiên tiểu thuyết. Trong khi đó, giải pháp bạo lực chỉ nằm ở phần thứ tư của cuốn sách.

Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền có một vị trí đặc biệt trong diễn biến cốt truyện về nhân vật trung tâm, đó là: lần đầu tiên, ông Ma-đơ-len, khi buộc phải xuất đầu lộ diện, đã chọn một giải pháp quyết liệt để đối phó với cường quyền và tìm lối thoát cho nạn nhân. Nếu trong Những người khốn khổ. Huy-gô nhiều lần miêu tả "cuộc đấu tranh vĩ đại giữa ông Thiện và ông Ác" thì đoạn này có thể coi như là một pha mở đầu cuộc đấu tranh ấy của nhân vật trung tâm.

Tuy chỉ là một đoạn trích, nhưng Người cầm quyền khôi phục uy quyền có tính chất rất tiêu biểu cho bút pháp của Huy-gô. Đồng thời, qua đó, người đọc cũng thấy được những nét đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Phóng đại, so sánh, ẩn dụ và tương phản là những thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của Huy-gô, nhưng đây không phải chỉ là vấn đề thủ pháp: tất cả những biện pháp này đều bị chi phối bởi đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn - đó là trong khi đối lập thực tế với lí tưởng, chủ nghĩa lãng mạn hướng về khuynh hướng khẳng định thế giới lí tưởng.

II - HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Như đã nói, đoạn trích này thể hiện nổi bật cho những đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Trong những đặc trưng ấy, phải khẳng định rằng việc xây dựng nên hai nhân vật hoàn toàn đối lập nhau là một trong những dấu hiệu quan trọng. Trong đoạn trích cũng như trong toàn thiên truyện, Giăng Van-giăng được lí tưởng hoá, tuyệt đối hoá trong vẻ đẹp tâm hồn. Nhân vật giống như một anh hùng trong truyện cổ, đối lập với cường quyền. Trong khi đó ở tuyến bên kia, Gia-ve lại là một kẻ đại ác.

Ở đoạn trích này, Huy-gô cũng đã rất thành công trong việc làm nổi bật hai hình tượng với hai phẩm chất hoàn toàn đối lập ấy. Đứng trước cái ác, chỉ với mong ước có thêm thời gian để đưa Cô-dét về cho Phăng-tin mà Giăng Van- giăng đã sẵn sàng chấp nhận tất cả. Giăng Van-giăng đã nhún nhường, thậm chí nhẫn nhục trước Gia-ve để mong có thể thực hiện được cái ước nguyện kia. Tình thế của nhân vật trong hoàn cảnh này là rất khó xử (trước đó, vì để làm yên lòng Phăng-tin, Giăng Van-giăng đã nói dối chị rằng ông đã đưa Cô-dét về rồi). Một mặt vừa phải van nài tên thanh tra biến chất, mặt khác lại phải e dè để tránh cho Phăng-tin không phải chịu cái tin quá đột ngột có thể gây sốc cho chị, hoàn cảnh ấy đã giúp tác giả thể hiện được toàn diện những phẩm chất đẹp của nhân vật.

Đối lập với Giăng Van-giăng là hình ảnh một Gia-ve độc ác. Trong đoạn trích, sự độc ác của Gia-ve mới đấu chỉ được thể hiện bằng vẻ mặt đắc chí và bằng những lời nói cộc lốc, thô lỗ. Nhưng khi kịch tính của truyện dần lên cao, hắn đã sẵn sàng chà đạp lên tất cả. Thậm chí, khi Phăng-tin đã tắt thở, Gia-ve vẫn chẳng hề có chút xao động gì. Với hắn, điều quan trọng nhất là không thể nào đánh mất cơ hội tiêu diệt Giăng Van-giăng.

2. Với mỗi nhân vật chính trong đoạn trích (Giăng Van-giăng và Gia-ve), Huy-gô lại thành công trên những phương diện nghệ thuật khác nhau

Khi thể hiện tính cách của Gia-ve, Huy-gô đã sử dụng rất nhiều những so sánh và ẩn dụ. Đó đều là những so sánh có tính chất phóng đại và đều nhằm quy chiếu về một ẩn dụ. Ấn tượng đầu tiên của người đọc về Gia-ve trong đoạn trích này có lẽ là lời nói của hắn - những lời cộc lốc và thô bỉ. "Trong cái điệu hắn nói lên hai tiếng ấy (Mau lên!) có cái gì man rợ và điên cuồng. [...] Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm". Rồi "hắn phóng vào Giăng Van-giăng cặp mắt nhìn như cái móc sắt, và với cái nhìn ấy hắn từng quen kéo giật vào hắn bao kẻ khốn khổ". Thêm nữa, cái cười của hạn mới càng thêm man rợ: "Gia-ve phá lên cười, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng". Tất cả những hình ảnh so sánh phóng đại nêu trên giúp ta hình dung một cách rất sâu sắc về Gia-ve với những nét điển hình của một tên ác thú. Đó cũng chính là những chi tiết làm nên một sự quy chiếu ẩn dụ cho nhân vật này.

Đối lập với Gia-ve, ở Giăng Van-giăng ta không tìm thấy một hệ thống hình ảnh so sánh quy chiếu về ẩn dụ. Tuy nhiên, qua diễn biến tình tiết dẫn tới đoạn kết, những chi tiết về Giăng Van-giăng lại giúp ta có thể liên tưởng đến nhiều ý nghĩa biểu tượng mang tính lí tưởng.

Trong đoạn trích, Giăng Van-giăng trước hết hiện lên qua ngòi bút miêu tả trực tiếp của nhà văn: "Ông bảo Phăng-tin bằng giọng hết sức nhẹ nhàng và điềm tĩnh", khi thì thì thầm hạ giọng... Tất cả những hành động ấy của Giăng Van-giăng đều rất điềm đạm. Nó hoàn toàn đối lập với các hành động của Gia-ve như đã phân tích ở trên.

Giăng Van-giăng cũng được miêu tả gián tiếp qua những lời cầu cứu của nhân vật Phăng-tin (điều này thể hiện: hình ảnh Giăng Van-giăng trong mắt của Phăng-tin như là một anh hùng, như là một vị cứu tinh). Giăng Van-giăng còn hiện lên rất đẹp qua cảnh tượng mà bà xơ Xem-pli-xơ đã chứng kiến: "lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết".

Những lời nói, hành động và ý nghĩ của Giăng Van-giăng trong đoạn cuối gợi lên những vẻ đẹp phi thường, lãng mạn. Hình ảnh đó nổi bật lên trên cái ác và cường quyền. Nó là nơi quy tụ và phát tiết của tình thương yêu.

3. Đoạn văn từ câu "Ông nói gì với chị?" đến câu "có thể là những sự thực cao cả" là phát ngôn của nhà văn. Thuật ngữ văn học dùng để chỉ tên loại ngôn ngữ này là: Bình luận ngoại đề (hay "Trữ tình ngoại đề”). Khái niệm này được giải thích như sau:

"Trữ tình ngoại đề chỉ một trong những yếu tố ngoài cốt truyện trong tác phẩm tự sự, là những đoạn văn đoạn thơ mà tác giả hay người kể chuyện trực tiếp bộc lộ những tình cảm, ý nghĩ, quan niệm của mình đối với nhân vật, đối với cuộc sống thể hiện trong tác phẩm...

[...] Trữ tình ngoại đề góp phần bộc lộ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, làm sáng tỏ thêm hình tượng nhân vật. Nếu xuất phát từ tư tưởng tiến bộ, từ những thể nghiệm sâu sắc về cuộc sống, những đoạn trữ tình ngoại đề có ý nghĩa giáo dục lớn đối  với người đọc. Đọc Thép đã tôi thế đấy của N. Ô-xtơ-rốp-xki chắc không ai quên một câu đã trở thành danh ngôn: Cái quý giá nhất của con người ta là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn của mình và để khi nhắm mắt xuôi tay, ta có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã dâng hiến cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời: sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người".

Trong tác phẩm tự sự, tính cách thông qua cốt truyện thể hiện nội dung của tác phẩm. Quá lạm dụng trữ tình ngoại đề sẽ làm cho tác phẩm tản mạn. Những đoạn trữ tình ngoại đề sai lệch về tư tưởng, thiếu kinh nghiệm sống, ảnh hưởng lớn đến chất lượng tác phẩm”.

(Nguyễn Xuân Nam, Từ điển văn học, NXB Thế giới, 2004)

4. Đoạn trích này thể hiện nhiều dấu hiệu nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn

- Những thủ pháp nghệ thuật quen thuộc: phóng đại, so sánh và tương phản.

- Tuy nhiên điều quan trọng hơn là tất cả những biện pháp này đều bị chi phối bởi đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn - đó là trong khi đối lập thực tế với lí tưởng, chủ nghĩa lãng mạn hướng về khuynh hướng khẳng định thế giới lí tưởng.

- Thế giới lí tưởng của Huy-gô (biểu hiện qua hình ảnh người anh hùng lãng mạn giải quyết những bất công xã hội bằng giải pháp tình thương) có thể nhuốm màu ảo tưởng, song điều này vẫn bồi đắp cho con người một tình cảm và lí tưởng đẹp đẽ, không thể thiếu.

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Trong đoạn trích, Phăng-tin không đóng vai trò là một nhân vật chính. Tuy nhiên, cách thể hiện nhân vật vẫn góp phần thể hiện những nét đặc trưng nghệ thuật nổi bật của Huy-gô .

Ở nhân vật này, một lần nữa, ta có thể minh hoạ lại nghệ thuật đối lập, như là một nét đặc trưng cho thế giới hình tượng của Huy-gô. Đó là:

- Nghệ thuật miêu tả nhân vật. Tác giả sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập:

+ Sự đối lập giữa:             Phăng-tin >< Gia-ve
                                        Nạn nhân >< Đao phủ

+ Sự đối lập giữa:             Phăng-tin >< Giăng Van-giăng
                                        Nạn nhân >< Vị cứu tinh

- Nghệ thuật miêu tả tâm trạng: trong đoạn trích, Phăng-tin từ tin tưởng tuyệt đối vào Giăng Van-giăng đến lo lắng, sợ hãi (khi Giăng Van-giăng bị Gia-ve lấn át) và đến khi Gia-ve nói: "Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len,... chỉ có thế thôi!" thì chị đã không thể chịu đựng nổi. Chị hoảng hốt rồi mất đi.

Quá trình diễn biến tâm lí của nhân vật cho ta thấy hiện lên hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương, thật tội nghiệp khi niềm tin về một chỗ dựa có thể giúp vượt qua cái ác bị đổ vỡ. Tuy nhiên, ngôn ngữ và hành động của Phăng-tin lại thể hiện một sức mạnh khác thường. Sức mạnh ấy là niềm tin vào tình thương yêu của con người; tin rằng cái ác không thể ngự trị mãi mãi; tương lai là của tình yêu thương và sự công bằng.

Tuy vậy, sự đối lập giữa Phăng-tin và Giăng Van-giăng không bác bó sự thật là cả Giăng Van-giăng cũng vẫn là nạn nhân, và cả hai nhân vật đều cùng một tuyến nhân vật nếu xét theo tiêu chí Thiện - Ác.

2. Từ sự phân tích trên đây, có thể thấy, Phăng-tin đóng vai trò quan trọng trong cốt truyện. Có thể xem nhân vật này chính là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác; Nhờ những câu chuyện xoay quanh số phân nhân vật này mà tính cách các nhân vật đối lập như Giăng Van-giăng và Gia-ve được thể hiện một cách nổi bật.

3. Trong đoạn trích, cũng như trong toàn thể thiên truyện, việc phân tuyến nhân vật là khá rõ và có nhiều nét giống với văn học dân gian. Đó là cách phân tuyến theo kiểu Thiện - Ác. Các nhân vật Giăng Van-giăng, Phăng-tin đối lập với Gia-ve. Việc sắp xếp tuyến nhân vật như vậy đồng thời cho hai tuyến xung đột quyết liệt với nhau sẽ giúp làm nổi bật trọn vẹn phẩm chất và tính cách của các nhân vật cũng như ý nghĩa tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.

Viết bình luận