Soạn bài: Tuần 24 - Từ ấy

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông thân sinh của Tố Hữu là một nhà nho nghèo nhưng rất ham thơ và thích sưu tầm ca dao, tục ngữ. Mẹ Tố Hữu cũng là con một nhà nho. Bà thuộc nhiều ca dao, dân ca xứ Huế và rất giàu tình thương yêu con. Quê hương và gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến hồn thơ Tố Hữu sau này.

Nhiệt tình tham gia cách mạng từ khi còn rất trẻ, năm 18 tuổi, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trước Cách mạng, Tố Hữu bị bắt, bị giam ở nhiều nơi, nhưng rồi nhà thơ đã vượt ngục Đắc Lay (Kon Turn), tiếp tục hoạt động cách mạng. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám, Tố Hữu là Chủ tịch ủy ban khởi nghĩa ở Huế, nơi đầu não của bộ máy chính quyền phong kiến.

Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ rồi khi đất nước thống nhất, Tố Hữu được phân công đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cũng như những công việc đặc trách về văn nghệ. Tố Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thơ ca cách mạng Việt Nam.

2. Các chặng đường thơ Tố Hữu luôn gắn bó song hành với các giai đoạn cách mạng, phản ánh những chặng đường cách mạng, đồng thời cũng thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ. Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Đây là đặc điểm bao quát nhất sự nghiệp thơ Tố Hữu và cũng chi phối mọi đặc điểm khác của thơ ông.

3. Bài thơ Từ ấy nằm trong phần Máu lửa của tập Từ ấy (tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xíchGiải phóng). Bài thơ này có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của một người chiến sĩ cách mạng, cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của một nhà thơ. Từ đó cho đến khi "tạm biệt đời yêu quý nhất", Tố Hữu đã sống và sáng tác theo đúng định hướng của bài thơ.

Năm 1937, Tố Hữu được giác ngộ và bắt đầu hoạt động cách mạng. Tháng 7 -1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ ấy chính là cái mốc đánh dấu thời điểm ấy. Sau này khi hồi tưởng lại, Tố Hữu viết: "Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi, đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh" (Câu chuyện về thơ).

II - HUỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Tố Hữu mở đầu bài thơ bằng những câu thơ đầy háo hức, say mê:

Từ ấy trong tôi hừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hai câu thơ kể lại một kỉ niệm đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ Tố Hữu, đó là khi nhà thơ được giác ngộ lí tưởng cộng sản và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (lúc đó ông mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế).

Để thể hiện niềm vui ấy, nhà thơ đã chọn dùng một loạt từ ngữ gợi hình và gợi cảm: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), rất đậm (hương), rộn (tiếng chim). Đây đều là những từ ngữ có khả năng tô đậm, nhấn mạnh cảm xúc, tình cảm của nhà thơ. Nó vừa đột ngột, mạnh mẽ vừa sôi nổi và sâu sắc. Vì thế, nó thể hiện được trạng thái cảm xúc hưng phấn của nhân vật trữ tình. Khổ thơ như tiếng reo vui đầy phấn chấn. Ánh sáng của cách mạng chói sáng như "nắng hạ", như "mặt trời" soi đường cho nhân vật trữ tình.

Ở hai câu thơ kế tiếp, bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh đã diễn tả nổi bật niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản:

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim...

Hai câu thơ thực sự là một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với vườn hoa lá ấy còn gì đáng quý hơn mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, còn gì đáng quý hơn khi có một lí tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt? Như thế, Tố Hữu đã sung sướng đón nhận lí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời và chính lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, làm cho cuộc sống của con người có ý nghĩa hơn. Nhưng Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới ấy của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hổn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật, trái lại, nó đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.

2. Khi có ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi rọi, nhà thơ đã có những nhận thức mới về lẽ sống. Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao "cái tôi" cá nhân chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu đã khẳng định lẽ sống là sự gắn bó hài hoà giữa "cái tôi" cá nhân và "cái ta” chung của mọi người. Câu thơ: "Tôi buộc lòng tôi với mọi người" đã thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm của Tố Hữu muốn vượt qua những giới hạn của "cái tôi" cá nhân để sống chan hoà với cuộc sống của muôn người. Và từ sự quyết tâm ấy, ý thơ trải rộng, gợi ra sự đồng cảm sâu xa:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Tình thương yêu con người của Tố Hữu không phảai là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp:

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Đó chính là sự khác biệt trong lí tưởng và hành động của người chiến sĩ cộng sản. Trong mối liên hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Từ khối đời chính là ẩn dụ chỉ khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, cùng đoàn kết chặt chẽ với nhau hướng đến một mục đích chung. Có thể hiểu: khi "cái tôi" đã chan hoà trong "cái ta" chung, khi cá nhân đã hoà mình vào một tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh cúa mỗi người sẽ được nâng lên gấp bội.

3. Giác ngộ lí tưởng cộng sản, nhà thơ đã có những chuyển biến sâu sắc trong tình cảm. Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu ruột thịt:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ...

Điệp từ cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết, cho thấy nhà thơ cảm nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ, đó là những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ "không áo cơm cù bất cù bơ" (những em bé không nơi nương tựa phải lang thang vất vưởng, nay đây mai đó). Qua những lời thơ ấy, người đọc có thể thấy được lòng căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Hình ảnh những kiếp người phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ cũng gần gũi với những nhân vật đã từng hiện diện trong các sáng tác khác của Tố Hữu giai đoạn này: cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, chú bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ, em bé bán bánh trong Một tiếng rao đêm,...

Bài thơ đã thể hiện một sự nhận thức sâu sắc về mối liên hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ. Cũng chính bởi thế mà bài thơ Từ ấy không chỉ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng mà còn là tuyên ngôn cho toàn bộ sáng tác của Tố Hữu nói chung.

4. Bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ gợi cảm (nhất là biện pháp tu từ ẩn dụ) và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

Nhạc điệu của bài thơ trước hết được tạo ra từ thể thơ thất ngôn - vốn mang âm điệu trang trọng. Cách ngắt nhịp trong bài thơ liên tục thay đổi qua các câu thơ, ví dụ: Từ ấy / trong tôi / bừng nắng hạ... Hồn tôi / tà một vườn hoa lá... Gần gũi nhau / thêm mạnh khối đời... Hệ thống vần cuối của các câu thơ cũng rất phong phú, có sức vang ngân, bởi nó chủ yếu là các âm mở, như: hạ - lá; người - nơi - đời ; nhà - pha,...

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Có thể chọn một trong ba khổ của bài thơ để viết nên những cảm nghĩ của anh (chị). Tuy nhiên, khổ thơ thứ nhất vẫn được xem là hay nhất của bài.

2. Trong lời tựa tập Trăm bài thơ của Tố Hữu, nhà thơ Chế Lan Viên viết: "Tất cả Tố Hữu, thi pháp, tuyên ngôn, những yếu tố làm ra anh có thể thấy trong tế bào này, anh là nhà thơ của vạn nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại...". Theo Chế Lan Viên, hai yếu tố làm ra anh (phong cách thơ Tố Hữu) là: thi pháp (phương thức biểu hiện: dùng thể thơ truyền thống, sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhịp điệu,...) và tuyên ngôn (quan điểm nhận thức và sáng tác: gắn bó với quần chúng lao khổ, phấn đấu vì cuộc sống hạnh phúc của đồng bào, tương lai tươi sáng của đất nước,...). Cả hai đặc điểm nêu trên, như đã phân tích đều được thể hiện rõ nét trong Từ ấy.

Viết bình luận