Soạn bài: Tuần 8 - Luật thơ

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Khái quát về luật thơ

- Luật thơ là toàn bộ những quy tắc về số câu, số tiếng (chữ), cách hiệp vần, ngắt nhịp, phép hài thanh,... trong các thể thơ được khái quát theo một kiểu mẫu nhất định.

- Các nhóm chính của các thể thơ Việt Nam:

+ Các thể thơ dân tộc gồm: lục bát, song thất lục bát và hát nói.

+ Các thể thơ Đường luật gồm: ngũ ngôn, thất ngôn (tứ tuyệt và bát cú).

+ Các thể thơ hiện đại gồm: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp, tự do, thơ - văn xuôi,...

- Trong luật thơ, tiếng là đơn vị có vai trò quan trọng.

+ Tiếng là đơn vị cấu tạo ý nghĩa và nhạc điệu dòng thơ, bài thơ.

+ Tiếng có thể phân tích thành ba phần: phụ âm đầu, vần và thanh điệu. Mỗi tiếng có một trong các thanh: không, huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. Thanh không, huyền thuộc nhóm thanh bằng ; thanh sắc, nặng, hỏi, ngã thuộc nhóm thanh trắc. Thanh không, sắc, ngã thuộc nhóm bổng (cao) ; thanh huyền, nặng, hỏi thuộc nhóm trầm (thấp). Vần thơ là phần được lặp lại để liên kết dòng trước với dòng sau.

+ Các tiếng có thanh bằng hay trắc ở những vị trí không đổi tạo chỗ ngừng, sự ngắt nhịp cho thơ.

2. Một số thể thơ truyền thống

- Thể lục bát (còn gọi là thể sáu - tám).

- Thể song thất lục bát (còn gọi là thể gián thất hay song thất).

- Các thể ngũ ngôn Đường luật:

+ Ngũ ngôn tứ tuyệt: 5 tiếng 4 dòng.

+ Ngũ ngôn bát cú: 5 tiếng 8 dòng.

- Các thể thất ngôn Đường luật:

+ Thất ngôn tứ tuyệt (còn gọi là thể tứ tuyệt hay tuyệt cú): 7 tiếng 4 dòng.

+ Thất ngôn bát cú: 7 tiếng 8 dòng.

3. Các thể thơ hiện đại

Các thể thơ hiện đại Việt Nam ra đời và phát triển bắt đầu từ phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Thơ hiện đại Việt Nam rất đa dạng, phong phú: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp, tự do, thơ - văn xuôi,...

II. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Phân biệt cách gieo vần, ngắt nhịp và hài thanh của hai câu thơ bảy tiếng trong thể song thất lục bát với thể thất ngôn Đường luật qua các ví dụ.

- Quan sát phần mô tả sau:

a) Trống Tràng thành / lung lay hóng nguyệt,

        T        B        B       B     B    T       T

Khói Cam Tuyền / mờ mịt thức mây,

    T     B      B       B    T    T    B

Chín lần / gươm báu / trao tay

   T    B       B     T       B    B

Nửa đêm / truyền hịch / định ngày / xuất chinh...

   T   B         B       T       T     B          T       B

(Đoàn Thị Điểm (?) - Chinh phụ ngâm)

b) Tiếng suối trong như / tiếng hát xa,

       T      T      B      B       T     T    B

Trăng lồng cổ thụ / bóng lồng hoa.

    B      B    T   T       T    B     B

Cảnh khuya như vẽ/ người chưa ngủ,

    T     B      B    T      B      B      T

Chưa ngủ vì lo / nỗi nước nhà.

    B    T    B B   T     T     B

(Hồ Chí Minh - Cảnh khuya)

- Nhận xét:

+ Cách gieo vần: trong đoạn thơ trích từ Chinh phụ ngâm có sự hiệp vần giữa hai câu thất (nguyệt - tuyền) và giữa câu thất thứ hai với hai câu lục bát (mây - tay - ngày). Các vần này đều là dạng gần âm chứ không phải lặp âm. Trong khi đó ở bài Cảnh khuya của Hồ Chí Minh, vần được gieo ở tiếng thứ 7 các câu 1, 2 và 4 (xa - hoa - nhà) theo đúng quy định của thơ tứ tuyệt Đường luật.

+ Ngắt nhịp: trong đoạn thơ trích từ Chinh phụ ngâm, hai câu thất ngắt nhịp 3/4, câu lục ngắt nhịp 2/2/2 và câu bát ngắt nhịp 2/2/2/2. Trong khi đó ở bài Cảnh khuya, cả bốn câu thơ đều ngắt nhịp 4/3.

+ Hài thanh: Quan sát tiếng thứ ba của hai câu thất trong đoạn thơ song thất lục bát có thể thấy nó đều là thanh bằng (thànhTuyền) - còn gọi là câu thất - bằng. Trong khi đó thanh của các tiếng thứ 2, 4 và 6 trong các câu lục bát đều đối xứng bằng - trắc chặt chẽ (B - T - B) theo đúng luật thơ của thể lục bát. Tuy nhiên tiếng thứ 6 và tiếng thứ 8 trong câu bát lại không đảm bảo việc đối lập âm vực trầm bổng. Ở bài Cảnh khuya, thanh của các tiếng thứ 2, 4 và 6 (lấy thanh của tiếng thứ 4 làm chuẩn) đều đối xứng bằng - trắc rất chặt chẽ.

Viết bình luận