Soạn bài: Tuần 32 - Tổng kết phần tiếng Việt: hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

- Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin của con người và được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ. Hoạt động giao tiếp gồm hai quá trình: tạo lập văn bản và lĩnh hội văn bản.

- Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ được sử dụng ở cả hai dạng: nói và viết.

- Hoạt động giao tiếp luôn luôn diễn ra trong một ngữ cảnh nhất định. Trong ngữ cảnh, nhân vật giao tiếp là nhân tố rất quan trọng. Các nhân vật giao tiếp đều phải có cả năng lực tạo lập và năng lực lĩnh hội văn bản. Trong giao tiếp ở dạng nói, họ thường đổi vai cho nhau hay luân phiên lượt lời. Các nhân vật giao tiếp có những đặc điểm về phương diện: vị thế xã hội, quan hệ thân sơ, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tầng lớp xã hội, vốn sống, văn hoá,... Những đặc điểm đó luôn chi phối nội dung và cách thức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Hơn thế, mỗi nhân vật giao tiếp thường xuất phát từ những điều kiện của ngữ cảnh mà lựa chọn cho mình một chiến lược giao tiếp tối ưu nhằm đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp.

- Khi giao tiếp, các nhân vật giao tiếp sử dụng ngôn ngữ chung của xã hội để tạo ra lời nói - những sản phẩm cụ thể của cá nhân. Trong hoạt động đó, các nhân vật giao tiếp vừa sử dụng những yếu tố của hệ thống ngôn ngữ chung và tuân thủ những quy tắc, chuẩn mực chung, đồng thời biểu lộ những nét riêng trong năng lực ngôn ngữ của cá nhân. Hơn nữa, mỗi cá nhân lại có thể và cần phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương tiện ngôn ngữ để tăng cường khả năng biểu đạt và hiệu quả giao tiếp bằng ngôn ngữ, góp phần đổi mới và phát triển ngôn ngữ.

- Trong hoạt động giao tiếp, mỗi câu thường có hai thành phần nghĩa: nghĩa sự việc và nghĩa tình thái. Nghĩa sự việc ứng với sự việc mà câu đề cập đến. Nghĩa tình thái thường thể hiện thái độ, tình cảm, sự nhìn thận, đánh giá của người nói đối với sự việc, hoặc đối với người nghe.

- Hoạt động giao tiếp bằng tiếng Việt yêu cầu các nhân vật giao tiếp cần có ý thức, thói quen và kĩ năng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Muốn thế, mỗi người cần nắm vững các chuẩn mực ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ đúng chuẩn mực, đồng thời có thể vận dụng linh hoạt, sáng tạo ngôn ngữ theo các quy tắc chung, và khi cần thiết có thể tiếp nhận những yếu tố tích cực của các ngôn ngữ khác, tuy cần chống lạm dụng tiếng nước ngoài. Mặt khác, để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mỗi nhân vật giao tiếp cần đề cao phẩm chất văn hoá, lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ, tránh những cách biểu hiện thô tục làm vẩn đục ngôn ngữ.

II - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Đọc đoạn trích (SGK, tr.180) và thực hiện các yêu cầu.

Gợi ý:

1. Trong đoạn trích trên, sự đổi vai luân phiên lượt lời liên tục diễn ra giữa hai nhân vật lão Hạc và ông giáo. Khi lão Hạc đóng vai người nói thì ông giáo đóng vai người nghe và ngược lại.

Những đặc điểm của giao tiếp ở dạng ngôn ngữ nói thể hiện qua những chi tiết sau:

- Cuộc giao tiếp có ngữ cảnh cụ thể: ở nhà ông giáo, sau khi lão Hạc bán chó.

- Các nhân vật sử dụng ngôn ngữ chung của toàn xã hội, có sự phụ trợ của các biểu hiện bên ngoài ("mặt lão... co rúm lại", "những vết nhăn xô lại vói nhau",...).

2. - Vị thế xã hội, quan hệ thân sơ và những đặc điểm riêng biệt của các nhân vật:

+ Ông giáo là người có học thức nên xét về học vấn, có vị thế xã hội cao hơn lão Hạc; nhưng lão Hạc lại có tuổi tác lớn hơn.

+ Hai người là hàng xóm, tuy không họ hàng thân thích nhưng rất quý mến, tôn trọng nhau.

+ Ông giáo là nhân vật trí thức có học và luôn thấu hiểu tình cảnh thời thế, có sự đồng cảm đặc biệt với những người nông dân chân lấm tay bùn quanh năm đói khổ. Lão Hạc là một nhân vật có hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh nhưng đó cũng là một con người giàu lòng tự trọng.

- Sự chi phối của những điều đó đến nội dung và cách thức nói trong lượt lời đầu tiên của lão Hạc.

+ Dù hơn tuổi nhân vật ông giáo nhưng để bày tỏ tình cảm quý mến, sự trân trọng đối với nhân vật này, lão Hạc gọi nhân vật này bằng "ông" - "ông giáo".

+ Do quan hệ gần gũi, thân thiết luôn có sự đồng cảm nên lão Hạc sang báo tin bán chó bằng cách thức rất thân tình: "báo ngay" (không "rào trước đón sau") không hề khách sáo. Cách nói cũng rất thân mật: gọi con chó là "cậu Vàng", dùng ngôn ngữ rất dân dã: "đi đời".

3. Phân tích nghĩa sự việc và nghĩa tình thái trong câu: "Bấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết".

- Nghĩa sự việc: Vào thời điểm "bấy giờ" (khi con chó Vàng bị hai thằng bắt chó trói chặt cả bốn chân) thì nó mới biết là nó bị chết.

- Nghĩa tình thái: sự đau xót, dằn vặt của lão Hạc về cái chết của con chó. Lão gọi nó bằng cái cách người ta vẫn gọi con cái rất thân mật "cu câu" nhưng nhắc đến nó là để nhắc đến cái chết của nó mà ông lão có góp phần tạo nên. Bởi vậy, lời nói nghẹn ngào như một tiếng khóc.

4. Trong đoạn trích có hoạt động giao tiếp ở dạng nói giữa hai nhân vật, đồng thời khi người đọc đọc đoạn trích (hoặc cả truyện Lão Hạc) lại có một hoạt động giao tiếp nữa giữa nhà vần Nam Cao và người đọc. Sự khác biệt giữa hai hoạt động giao tiếp đó:

- Hoạt động giao tiếp giữa hai nhân vật là ở dạng nói và nói trực tiếp. Do vậy, việc luân phiên lượt lời có thể liên tục diễn ra, hoạt động giao tiếp diễn ra theo cả hai chiều.

- Hoạt động giao tiếp giữa Nam Cao và người đọc là ở dạng viết - đọc và là giao tiếp gián tiếp. Đây là sự giao tiếp một chiều: chỉ có người đọc đọc được những tư tưởng, tình cảm của nhà văn.

Viết bình luận