Soạn bài: Tuần 24 - Chiếc thuyền ngoài xa

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1944, ông học Trường Kĩ nghệ Huế. Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội, theo học Trường Sĩ quan Lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ 1952 đến 1958, ông công tác và chiến đấu tại Sư đoàn 320. Năm 1962, ông về Phòng Vãn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Năm 2000, ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Tác phẩm chính: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những người đi từ trong rừng ra (1982), Mảnh đất tình yêu (1987), Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974), Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết, 1981),... và một tập tiểu luận phê bình Trang giấy trước đèn (1994). Đặc biệt, với các tập truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Chiếc thuyền ngoài xa (1987), cỏ lau (1989), Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

2. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị của đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm của ông về nghệ thuật và cuộc đời.

(Theo SGK Ngữ văn 12, tập hai)

II - HUỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Để có một tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, đã dự tính bố cục, phục kích mấy buổi sáng để chộp được một cảnh thật ưng ý. Đôi mắt người nghệ sĩ phát hiện được một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần, "trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới [...] toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp [...] tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Niềm vui sướng của nhân vật tôi là niềm hạnh phúc của một người nghệ sĩ đạt tới đỉnh cao của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận huyền diệu, tinh khôi của cái đẹp. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa chính là một điểm nhấn linh diệu mà bắt gặp được nó là tâm hồn con người đã chạm được vào nơi tân thiện, tận mĩ. Hình ảnh nghệ thuật hài hoà, vẻ đẹp cuộc sống lãng mạn có khả năng tác động mạnh mẽ và thanh lọc tâm hồn con người.

2. Phát hiện thứ hai của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đầy nghịch lí. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyển ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu, một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau. Từng là một người lính cầm súng chiến đấu, Phùng không thể chấp nhân, chịu đựng nổi cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con trai lão đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính, không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Anh cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ. Phùng đã từng có "cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại", anh đã từng chiêm nghiệm "bản thân cái đẹp chính là đạo đức", vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp "toàn bích, toàn thiện" mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là "đạo đức", là "chân lí của sự hoàn thiện". Sự thật cuộc sống làm người nghệ sĩ bất ngờ, day dứt và ám ảnh khôn cùng.

3. Câu chuyện của người đàn bà ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng", nhưng vẫn nhất quyết gắn bó với người đàn ống vũ phu ấy. Lời giãi bày của người mẹ đáng thương chất chứa những hi sinh, yêu thương vô bờ bến cho những đứa con của mình "đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa [...] phải sống cho con chứ không thể sống cho mình...". Sự cam chịu, nhẫn nhục của người đàn bà thương con này là một lựa chọn duy nhất. Vì thương con mà bà không thể tìm một lối thoát nào khác cho mình. Trong đau khổ triền miên, bà vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: "Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no [...] trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ", "ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn...". Câu chuyện của người đàn bà càng khẳng định một cách nhìn của người nghệ sĩ về cuộc đời và con người: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.

(Theo SGV Ngữ văn 12, trang 79 - 82)

4. Người đàn bà vùng biển là một nhân vật vô danh, không tên, không tuổi, nhưng lại được tác giả tập trung thể hiện tính cách, số phận một cách sinh động, đặc sắc. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, mặt rỗ, lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt mệt mỏi, dấu vết in hằn của một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, hành hạ được bà coi là một việc tất yếu, đương nhiên, bởi trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài xa cần có một người đàn ông khoẻ mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rỗ rệt ra bề ngoài", đó chính là lòng nhân hâu, sự bao dung, đức hi sinh đẹp đẽ của người mẹ, khiến người đọc cảm thông và trân trọng.

Cuộc sống đói nghèo, quẩn quanh những lo toan, cực nhọc đã biến "anh con trai cục tính nhưng hiền lành" xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc. ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như giải toả uất ức, để trút sạch những tức tối, buồn phiền, "lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà". Con người vì thoả mãn cảm giác của mình mà tự cho mình cái quyền được bạc ác, tàn nhẫn với người khác. Lão đàn ông "mái tóc tổ quạ", "chân chữ bát", "hai con mắt đầy vẻ độc dữ" vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình.

Chị em thằng Phác chính là những đứa trẻ đáng thương, trực tiếp hứng chịu những bi kịch gia đình mà bố chúng gây ra. Chị thằng Phác là một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lí. Cô bé tan nát vì đau đớn khi phải chứng kiến những cảnh tượng bi kịch của gia đình nhưng đã hành động đúng khi là điểm tựa vững chắc cho người mẹ đáng thương và cản được việc làm dại dột của đứa em, biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Thằng Phác thương mẹ theo kiểu của một đứa con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển, nó "lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong lòng những nốt rỗ chằng chịt", nó "tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh". Những ngây thơ, non dại của một thằng bé con vẫn khiến người ta nhói đau và cảm động bởi tình thương mẹ da diết, xót xa.

Phùng vốn là một chiến sĩ từng vào sinh ra tử, anh căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẩn sàng làm tất cả vì điều thiện, vì công bằng. Tâm hồn người nghệ sĩ thật sự tinh tế, nhạy cảm khi xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh. Nhưng những xúc cảm đẹp đẽ, trong trẻo, tinh khôi đó đã vỡ oà khi phát hiện ra đằng sau cảnh đẹp đó lại là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Đầu tiên là kinh ngạc, "há mồm ra mà nhìn", sau đó là một phản xạ tự nhiên "vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới". Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại nằm rất gần. Nghệ thuật chân chính phải vì chính cuộc đời đó mà tồn tại, mà lên tiếng. Bởi thế, người nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp cũng phải là người nghệ sĩ biết thấu cảm những buồn vui, cay đắng ở đời.

5. Cách xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu nằm chính ở cách tạo tình huống mang ý. nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Tình huống Phùng chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ chính là một sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách của con người. Trước đó, anh nhìn đời bằng con mắt của một người nghệ sĩ đầy rung động, mê say trước cái đẹp trời cho của thuyền biển sớm mai. Nhưng chính trong giây phút thăng hoa đó, tâm hồn người nghệ sĩ lại va chạm rất mạnh vào sự thật ở đời. Tinh huống được lặp lại lần hai, từ đó, Phùng có một cách nhìn đời khác hẳn, thấy rõ những ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính cách của người đàn bà, chị em thằng Phác, bản chất người đồng đội và hiểu thêm chính bản thân mình. Tinh huống truyện được tác giả đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.

6. Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn cũng hết sức phong phú, độc đáo. Người kể chuyện là nhân vật Phùng, cũng chính là hoá thân của tác giả. Lựa chọn người kể chuyện như vậy đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.

Ngôn ngữ các nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: giọng điệu lão đàn ông thô bỉ, tàn nhẫn với những từ ngữ tục tằn, hung bạo, lời người đàn bà lại dịu dàng, xót xa khi nói với con, đớn đau và thấu trải khi nói về thân phận của mình,... Việc sử dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt và sáng tạo đã góp phần khắc sâu thêm chủ đề, tư tưởng cho tác phẩm.

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Nhân vật nào trong truyện để lại cho anh (chị) ấn tượng sâu sắc nhất? Vì sao?

Gợi ý:

Nhân vật Phùng là kiểu nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: kiểu nhân vật nhận thức. Qua những sự việc xảy ra trong truyện, nhân vật dần nhận ra được điều gì đó thật sâu sắc, khác hẳn với những gì anh ta đã nghĩ lúc đầu.

Đặc biệt, đoạn văn cuối tác phẩm gợi tả ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng: "Tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sáng sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng", "và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh... hoà lẫn đám đông". Nguyễn Minh Châu để cho Phùng tự vẽ khuôn mặt bên trong của mình. Nhà văn tô đậm tâm trạng phức hợp ở nhân vật. Bức ảnh lịch ám ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh và cũng nhờ nó mà anh luôn được sống lại kỉ niệm, gặp lại màn sương hồng hồng thơ mộng. Qua tâm tư của Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định: Người nghệ sĩ cần gắn bó với cuộc đời, phải kiên trì tìm trong hiện thực vẻ đẹp của cuộc sống, đồng thời phải dũng cảm ghi lại những số phận, những cảnh đời còn lam lũ, cực khổ.

Viết bình luận