Soạn bài: Tuần 14 - Nhàn

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương (nay thuộc xã Lí Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng), từng thi đỗ Trạng nguyên. Làm quan được tám năm, ông dâng sớ xin chém mười tám kẻ lộng thần nhưng không được chấp nhận. Sau đó ông xin về trí sĩ ở quê nhà, tự đặt tên hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân, mở trường dạy học. Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm có tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập, tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi,...

2. Bao trùm trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khi về trí sĩ ở quê nhà là cảm hứng thanh nhàn, tự tại, gắn bó với tự nhiên, không tơ tưởng bon chen phú quý. Cảm hứng ấy được thể hiện bằng ngôn từ giản dị, tự nhiên mà cô đọng, giàu ý vị. Bài thơ Nhàn trích ở tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi là một trường hợp tiêu biểu.

3. Với lời thơ tự nhiên, giản dị mà giàu ý vị, bài thơ Nhàn thể hiện được một cách sâu sắc cái thú nhàn và ý nghĩa triết lí trong lối sống nhàn dật mà tác giả đã lựa chọn. Nhàn trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có ý nghĩa phong phú, đa dạng. Sống hoà hợp với tự nhiên, hay thuận theo tự nhiên, lánh xa danh lợi, hoặc giữ cốt cách thanh cao đều là nhàn.

II - HƯỚNG DẪN ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1. Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh người trí sĩ ẩn cư nhàn dật. Nhân vật trữ tình này xuất hiện trong lời thơ với những chi tiết về cách sống, cách sinh hoạt và quan niệm sống: tự cuốc đất trồng cây, đào củ, câu cá; chọn nơi vắng vẻ, không thích nơi ồn ã; ăn uống, tắm táp thoải mái, tự nhiên; coi phú quý tựa giấc mộng.

Âm hưởng hai câu thơ đầu đã gợi ra ngay cái vẻ thung dung. Nhịp thơ 2/2/3 cộng với việc dùng các số từ tính đếm (một..., một..., một...) trước các danh từ mai, cuốc, cần câu cho thấy cái chủ động, sẵn sàng của cụ Trạng đối với cuộc sống điền dã, và còn như có chút ngông ngạo trước thói đời.

Có thể thấy vẻ đẹp giản dị, tự nhiên của bài thơ ở việc lựa chọn từ ngữ, giọng điệu. Các từ ngữ nôm na, dân dã được sử dụng kết hợp với cách cấu tạo câu thơ như lời khẩu ngữ tự nhiên đã tạo ra nét nghệ thuật độc đáo cho bài thơ. Đúng như nhận xét của Phan Huy Chú: "Văn chương ông tự nhiên nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời".

2. Sự đối lập giữa "Ta dại" và "Người khôn" trong hai câu 3-4 mang nhiều hàm ý: vừa để khẳng định sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của tác giả, vừa thể hiện sắc thái trào lộng, thái độ mỉa mai đối với cách sống ham hố danh vọng, phú quý. Theo đó, cái dại của "ta" là cái "ngu dại" của bậc đại trí, với trí tuệ lớn, thấu triệt lẽ thịnh suy, vong tồn của cuộc đời, sống thanh thản, nhàn dật, thuận lẽ tự nhiên. Cho nên, nơi "ta" chọn là "nơi vắng vẻ", nghĩa là nơi có thể tĩnh tại, sống an nhàn, không có tranh giành "tư lợi" theo sở thích của "ta". Còn "người khôn" mà chọn đến "chốn lao xao", nghĩa là nơi ồn ã, ở đó con người chen chúc, xô đẩy nhau để giành giật lợi danh, thì lại hoá ra "dại" vậy. "Khôn" - "dại", "nơi vắng vẻ" - "chốn lao xao" là những quan niệm sống, là những cách lựa chọn rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nó thể hiện sự mẫn tiệp trong trí tuệ của nhà hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm.

3. Ở hai câu 5, 6, tác giả nói đến chuyện "ăn" và "tắm" một cách đầy thích thú. Theo vòng quay bốn mùa quanh năm, việc "ăn", "tắm" của "ta" thuận theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên; đạm bạc, thanh bần nhưng thú vị, thanh thản.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Sự đạm bạc là ở những thức ăn quê mùa, dân dã (măng trúc, giá đỗ). Sự hoà hợp với tự nhiên là ở lối sinh hoạt chẳng khác gì những người dân quê khác ("Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"). Tuy nhiên, đạm bạc mà không khắc khổ. Đạm bạc mà rất thanh cao. Nhân vật trữ tình ở đây như thoát khỏi mọi ràng buộc để chỉnh, lại có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với đủ mùi vị, hương sắc. Ngôn ngữ thơ giản dị mà cảnh thì đẹp đến thanh trong. Cảnh thơ, hồn thơ khơi gợi sự say mê và cuốn hút lòng người.

4. Hai câu thơ cuối bài thể hiện tập trung, sâu sắc quan niệm triết lí nhân sinh của tác giả. Hai câu này lấy tích trong - truyện đời Đường. Chuyện kể về Thuần Vu Phần là một viên tướng tài, tính tình phóng khoáng, do xúc phạm thống soái, bị quở mắng nên từ chức về nhà, lấy uống rượu làm vui. Một hôm, Vu Phần say rượu ngủ bên gốc cây hoè, mơ thấy mình được làm phò mã cho vua nước Hoè An, được hưởng giàu sang phú quý, tỉnh dậy mới biết đó chỉ là giấc mơ. Tác giả mượn điển tích này để bộc lộ thái độ xem thường phú quý, coi chốn quyền danh phú quý chỉ là giấc chiêm bao, không có thực, qua đó khẳng định thêm một lần nữa sự lựa chọn phương châm sống, cách ứng xử của riêng mình.

5. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ là quan niệm về lối sống không màng phú quý. Ông xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao, để được sống hoà hợp với thiên nhiên cây cỏ. Đó là lối sống không có vướng bận, không có bon chen.

Lánh đời ẩn dật, cách ứng xử đó của tác giả tưởng như là tiêu cực. Nhưng trong hoàn cảnh xã hội rối ren, nhiều bon chen, phụ bạc, muốn giữ gìn nhân cách, sự thanh thản, tĩnh tại cho mình, đó lại là cách ứng xử tích cực. Sống trong hoàn cảnh ấy mới thấy sự lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một sự lựa chọn đáng để cảm thông (một sự lựa chọn tích cực chứ không phải là một sự chạy trốn cuộc đời).

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn:

"Nhàn" là một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhàn theo quan niệm của nhà thơ là sống thuận theo lẽ tự nhiên, không màng danh lợi. Bài thơ này là lời tâm sự về cuộc sống và sở thích cá nhân. Nó cũng đồng thời thể hiện một quan niệm nhân sinh độc đáo của nhà thơ.

Bài thơ mở đầu bằng những ngôn từ thật vô cùng giản dị:

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Đó là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết biết bao. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời "nước giếng đào, cơm cày ruộng". Cuộc sống tự cung tự cấp mà vẫn ung dung ngông ngạo trước thói đời. Hai câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp câu thơ nghe như nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước: một... một... một...

Đến hai câu luận nhà thơ lại tiếp tục nhấn thêm một chút tình điệu thôn quê nữa để người đọc cảm nhận thực sự được cái vui của "cuộc sống nhàn":

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thường, vậy mà hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm "sang trọng" biết bao. Nó chẳng những không gợi ra vẻ gì khắc khổ mà còn toát lên toàn bộ vẻ thanh cao. Thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi được hoà mình vào cuộc sống thiên nhiên.

Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế, rất giản dị, rất tự nhiên mà vẫn thanh cao và thú vị vô cùng.

Nếu chỉ đọc bốn câu thơ miêu tả về cuộc sống, chúng ta có thể nghĩ ngay đến hình ảnh một bậc danh nho đang muốn lánh đời. Thế nhưng trở về với hai câu thực, chúng ta sẽ hiểu hơn cái quan niệm "lánh đời" của nhà thơ:

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Vậy ra, Tuyết Giang Phu Tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu nhương đầy những ganh tị, bon chen. Hai câu thơ diễn ý bằng cách nói ngược. Vì thế nó tạo cho người đọc một sự liên tưởng thật hóm hỉnh, sâu cay. Câu thơ đúng là trí tuệ sắc sảo của một bậc đại nho, nhận ra cái khôn và cái dại thật sự ở đời.

Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:

Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Hai câu thơ chẳng biết đang vẽ cảnh đời hay tiên cảnh, ở đó nhân vật trữ tình cũng không biết đang tỉnh hay mơ. Tất cả cứ hoà cùng làm một dưới cái nhãn quan tỏ tường và thông tuệ của nhà thơ.

Viết bình luận