Soạn bài: Sống chết mặc bay

I - KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Phạm Duy Tốn (1883 - 1924), nguyên quán làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín ; sinh ra và lớn lên ở thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu), Hà Nội. Ông là người viết văn, làm báo và có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại.

2. Bằng lời văn cụ thể, sinh động, bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp nghệ thuật tương phản và tăng cấp, Sống chết mặc bay đã lên án gay gắt tên quan phụ mẫu "lòng lang dạ thú" và bày tỏ niềm cảm thông trước cảnh "nghìn sầu muôn thảm" của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây ra.

II - HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Truyện ngắn Sống chết mặc bay có thể chia làm 3 đoạn :

Đoạn 1 (từ đầu đến "Khúc đê này hỏng mất") : Nguy cơ đê bị vỡ và sự chống đỡ của người dân.

Đoạn 2 (tiếp theo đến "Điếu, mày !") : Quan phụ mẫu vô trách nhiệm, mải mê bài bạc trong khi đi hộ đê.

Đoạn 3 (còn lại) : Đê bị vỡ, nhân dân lâm vào cảnh thảm sầu.

2. Theo định nghĩa về phép tương phản :

a) Hai mặt tương phản cơ bản trong truyện Sống chết mặc bay : Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi trong chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai quấy rầy ván bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ.

b) Những người dân hộ đê : Làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai ai cũng mệt lử cả rồi; trong khi mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét : "Tình cảnh trông thật là thảm".

c) Viên quan đi hộ đê thì ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, các tay chân ngồi hầu bài. Khung cảnh nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi cách cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. Và y tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, mặc cho dân rơi vào cảnh đê vỡ, "tình cảnh thảm sầu" không sao kể xiết.

d) Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản nhằm mục đích so sánh, làm nổi bật sự đốì lập. Người có trách nhiệm thì vô trách nhiệm, chỉ ham mê bài bạc. Nhũng người dân thì phải dầm mưa gội gió, nhọc nhằn, chông choi với thiên nhiên một cách tuyệt vọng. Cuối cùng, sự vô trách nhiệm của viên quan đã dẫn đến cảnh đê vỡ. Quan thì sung sướng vì nước bài cao, dân thì khổ vì nước lụt.

3. a) Phép tăng cấp đã được sử dụng để miêu tả tình cảnh nguy ngập của khúc đê. Mưa mỗi lúc một tầm tã. Nước sông càng dâng cao. Dân chúng thì đuối sức, mệt lử cả rồi.

b) Phép tăng cấp cũng được sử dụng để miêu tả thái độ vô trách nhiệm, lòng lang dạ thú của viên quan. Viên quan hộ đê không cùng dân chống đỡ mà ngồi trong đình vững chãi, an toàn. Bao kẻ phải hầu hạ quan. Không phải là vì công việc mà chỉ vì một thú chơi bài. Quan chơi bài nhàn nhã, ung dung. Quan gắt khi có người quấy rầy. Quan quát mắng, đòi cách cổ, bỏ tù khi có người báo đê vỡ. Quan sung sướng vì ván bài ù. Mức độ vô trách nhiệm và cáu gắt vô lí của quan càng thể hiện rõ nét.

c) Sự kết hợp của nghệ thuật tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách nhiệm của viên quan. Nếu viên quan chỉ ham đánh bạc thì đó là thói xấu trong sinh hoạt của cá nhân y. Nhưng y đánh bạc khi làm công vụ, cụ thể là khi đi hộ đê, liên quan đến tính mạng và tài sản của dân chúng thì đó là sự vô trách nhiệm. Y thắng ván bài đã chờ thì y sung sướng là lẽ thường tình. Nhung y thắng bài khi đê vỡ, y sung sướng khi bao người dân khổ sở, cùng cực thì sự vui mừng của y là một hành động phi nhân tính của kẻ lòng lang dạ thú. Chính sự kết hợp này đã làm cho tính chất tố cáo và phê phán thêm sâu sắc.

4. Giá trị hiện thực của truyện Sống chết mặc bay là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò "cha mẹ" người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt.

Giá trị nhân đạo của truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra do thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại.

Giá trị nghệ thuật : Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ Quốc ngữ. Nhân vật đã bước đầu có tính cách. Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, tăng cấp, kết hợp với lời bình luận trực tiếp để tố cáo và phố phán. Nhân vật quan phụ mẫu đã bộc lộ bản chất xấu xa, vô trách nhiệm qua các hành động, lời nói của y với tay chân và với người dân.

III - HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

1. Em hãy chú ý đến tính chất đa dạng khi kết hợp các hình thức ngôn ngữ trong một tác phẩm tự sự hiện đại (khác với truyện dân gian và truyện trung đại). Trong tác phẩm, có ngôn ngữ miêu tả, thể hiện rõ nhất trong đoạn văn tả cảnh quan đánh bài trong đình và những đồ dùng mà viên quan mang theo. Các hình thức ngôn ngữ khác, khi tìm được, hãy đánh dấu vào cột có.

2. Nhân vật viên quan là một kẻ hống hách, độc đoán, vô trách nhiệm,... Ngôn ngữ của y ngắn, gọn, mang đậm tính mệnh lệnh : Y gọi : Điếu, mày ! Y đồng ý bằng một tiếng : . Y đối thoại có khi trống không : Mặc kệ ! Có ăn không thì bốc chứ ! Đuổi cổ nó ra !

Khi bực mình, y tuôn ra hàng tràng dài những lời quở trách :

- Đê vỡ rồi !... Đê vỡ rồi thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày. Có biết không ?... Lính đâu ? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy ? Không còn phép tắc gì nữa ả ?

Giữa ngôn ngữ và tính cách nhân vật có mốì liên hệ chặt chẽ. Ngôn ngữ phản ánh tính cách của nhân vật. Đây là sự thành công trong nghệ thuật của tác giả.

Viết bình luận