Soạn bài: Khái quát văn học dân gian Việt Nam

I. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

Có 3 đặc trưng:

1. Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng (tính truyền miệng)

- Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ.

- Văn học dân gian tồn tại và phát triển nhờ truyền miệng.

+ Truyền miệng là sự ghi nhớ theo kiểu nhập tâm và phổ biến bằng lời nói hoặc trích dẫn cho người khác nghe xem. Văn học dân gian khi phổ biến lại, đã thông qua lăng kính chủ quan của người truyền tụng nên thường có sáng tạo thêm.

+ Có hai phương cách truyền miệng: Truyền miệng theo không gian là sự di chuyển tác phẩm từ nơi này đến nơi knác và truyền miệng theo thời gian là sự bảo lưu tác phẩm từ đời này qua đời khác, từ thời đại này qua thời đại khác.

+ Quá trình truyền miệng được thực hiện thông qua diễn xướng dân gian. Tham gia diễn xướng ít là một hai người, nhiều là cả một tập thể trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Các hình thức diễn xướng là nói, kể, hát, diễn tác phẩm văn học dân gian.

2. Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tạo tập thể (tính tập thể)

Tập thể có thể là một nhóm người mà cũng có thể là một cộng đồng dân cư. Nếu chỉ một nhóm người, một tập thể nhỏ thì người ta có thể chỉ rõ ra được tên từng thành viên, kể cả nơi cư trú cũng như hoàn cảnh riêng của họ.

Thế thì tại sao tên của từng người ấy lại không đọng lại trong kí ức dân gian? Phải hiểu là không phải tất cả các cá nhân cùng một lúc tham gia sáng tác. Mà mỗi cá nhân lại tham gia ở những thời điểm khác nhau. Do truyền miệng nên lâu ngày, không ai nhớ được và cũng chẳng cần nhớ ai là tác giả. Vì vậy, tác phẩm văn học dân gian trở thành tài sản chung, bất kì ai cũng có thế tự ý bổ sung sửa chữa. Nhờ đó mà tác phẩm hay hơn được bổ sung đầy đủ phong phú hơn.

Tập thể là tất cả mọi người, bất kì ai cũng có thế tham gia sáng tác. Trong các thời đại trước đây vì người lao động không có “phương tiện sản xuất tinh thần” nên họ sáng tác văn học dân gian và xem đó là cách thức duy nhất để thỏa mãn nhu cầu thưởng thức và sáng tạo nghệ thuật của riêng mình. Vì vậy, nhân dân lao động là lực lượng chính tạo ra văn học dân gian của mỗi dân tộc.

3. Văn học dân gian gắn bó và phục vụ trực tiếp cho các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng

- Văn học dân gian đóng vai trò phối hợp hoạt động theo chính nhịp điệu của hoạt động đó.

- Văn học dân gian gây không khí để kích thích hoạt dộng, gợi cảm hứng cho người trong cuộc.

Bất kì hoạt động nào cũng cần có ảnh hưởng. Văn học dân gian luôn tạo được niềm say mê cho người trong cuộc, vì thế, đáp ứng vai trò quan trọng là tạo ra hiệu quả của hoạt động.

II. HỆ THỐNG THỂ LOẠI CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

1. Thần thoại: Thường kể về các vị thần nhằm giải thích tự nhiên, thế hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn hóa của con người thời cổ đại.

Vi dụ: Tliẩn Trụ Trời, Cóc kiện trời, Quả bầu mẹ...

2. Sử thi: Kể lại những sự kiện quan trọng đối với toàn thể cộng đồng.

Ví dụ: Trường ca Đăm Săn, Đẻ đất đẻ nước..,

3. Truyền thuyết: Kề về các sự kiện và nhân vật lịch sử theo trí tưởng tượng và hư cấu của dân gian.

Ví dụ: Thánh Gióng, Mị Châu - Trọng Thủy, Lê Lợi, Hồ Gươm...

4. Truyện cổ tích: Kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động.

Ví dụ: Tấm Cám, Hai anh em và cây khế, Sự tích trầu cau...

5. Truyện ngụ ngôn: Với nhân vật chủ yếu là loài vật, đồ vật nhằm đưa ra những bài học luân lí, cách sống, sự khôn ngoan.

Ví dụ: Đeo nhạc cho mèo, Thầy bói xem voi...

6. Truyện cười: Có nội dung gây cười hài hước để châm biếm, đả kích, giải trí.

Ví dụ: Tam đại con gà, Thà chết còn hơn, Truyện Trạng Quỳnh...

7. Tục ngữ: Những câu nói ngắn gọn có vần điệu ghi lại những điều quan sát được về thiên nhiên, con người, xã hội, đúc kết kinh nghiệm sống, những lời khuyên răn về ăn ở, xử thế.

Ví dụ: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng...

8. Câu đố: Ngắn gọn miêu tả sự vật bằng cách nói chệch.

Ví dụ: Vừa bằng lá tre, Xum xoe đánh vật (cái kéo)...

9. Ca dao: Là các thể loại trữ tình dân gian kết hợp vần điệu nhạc tính, phản ánh thế giới tâm hồn tình cảm của nhân dân lao động.

Ví dụ: Anh đừng tham các bông quế.

Bỏ phế các bông lài.

Mai sau quế rụng, bông lài thơm xa.

10. Vè: Tự sự dân gian với lối kể mộc mạc bàn bạc về những sự kiện có tính thời sự của làng nước.

Ví dụ: Vè lịch sử, vè hoa quả...

11. Truyện thơ: Truyện kể bằng thơ.

Ví dụ: Tiễn dặn người yêu, Vượt biển...

12. Chèo: Tác phẩm sân khấu dân gian.

Ví dụ: Quan Âm Thị Kính...

III. NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

1. Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc

Việt Nam có hơn 54 tộc người. Mỗi tộc người có một kho tàng văn học dân gian riêng, vì thế vốn tri thức của toàn dân tộc vô cùng phong phú và đa dạng. Văn học dân gian là kho tri thức vô cùng phong phú về đời sống các dân tộc là vì thế.

2. Văn học dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lí làm người

Văn học dân gian giáo dục con người tinh thần nhân đạo và lạc quan. Đó là tình yêu thương đối với đồng loại, là tinh thần đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ và giải phóng con người khỏi những cảnh bất công, là niềm tin bất diệt vào chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa, của cái thiện.

Văn học dân gian góp phần hình thành những phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương quê hương, đất nước, tinh thần bất khuất, đức kiên trung và vị tha, tính cần kiệm, óc thực tiễn...

3. Văn học dân gian có giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học dân tộc

Văn học dân gian được chắt lọc, mài giũa qua không gian và thời gian và khi đến với chúng ta, đã trở thành những viên ngọc sáng. Nhiều tác phẩm đã trở thành mẫu mực về nghệ thuật để cho chúng ta học tập. Những truyện kể dân gian làm cho “Từ đứa trẻ đầu xanh đến cụ già tóc bạc đầu truyền tụng và yêu dấu” (tựa sách Lĩnh Nam chính quái). Những lời ca tiếng hát ân tình ngày xưa vẫn còn làm say đắm lòng người hôm nay và cả mai sau.

Viết bình luận