Soạn bài: Hầu trời

“Tản Đà là con người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương của ông đều mang dấu ấn đó. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại phong kiến nhưng Tản Đà lại thuộc lớp người đầu tiên mưu sinh bằng nghề viết văn, làm báo. Theo học chữ Hán từ nhỏ nhưng sau hai khóa thi Hương hỏng ông sớm chuyển sang sáng tác bằng quốc ngữ. Tản Đà ham học hỏi. Tuy là nhà nho nhưng ông ít chịu khép mình trong khuôn phép nhà nho. Tuy sáng tác chủ yếu theo các thể loại cũ nhưng cảm xúc của ông lại rất mới mẻ...

Thơ văn Tản Đà có thể xem như một gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.

Bài thơ Hầu Trời ra đời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX khi mà lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại.

Nhà thơ Xuân Diệu từng đánh giá trong 19 bài thơ trường thiên của thi sĩ Tản Đà “có ba bài lời thơ chắc: Thu Khuê oán, Hầu Trời và Thăm mả cũ là những bài đứng lại được với thời gian, ngạo cùng năm tháng”.

GỢI Ý HỌC BÀI

1. Khổ thơ đầu

Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.

Tác giả vào chuyện đột ngột độc đáo và có duyên. Thật đúng như lời bình của nhà thơ Xuân Diệu: “Vào đột ngột câu đầu, cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”.

Khổ thơ đầu có sức hấp dẫn người đọc vì đã tạo được mối nghi vấn gợi được trí tò mò muốn tìm biết đến cùng câu chuyện. Chuyện của thi sĩ bắt đầu là sự bán tín bán nghi: “Chẳng biết có hay không” và tiếp liền với hai từ phủ định chẳng, không là đến ba từ xác định thật:

Chẳng phải hoảng hốt, không ma mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên...

Bốn từ thật khẳng định mạnh mẽ lại được nhắc đi nhắc lại như thể củng cố lòng tin của người đọc: đúng là chuyên này có thật. Điều này làm cho câu chuyện thi sĩ sắp kể thêm hấp dẫn người đọc, khó ai có thể bỏ qua được.

2. Sau khi kể lí do cùng thời điểm mình được “gọi lên” hầu trời, thi sĩ kể tiếp về cuộc đọc thơ đầy đắc ý của mình cho trời và chư tiên nghe giữa chốn “Thiên môn đế khuyết”. Đây cũng là phần chính của bài thơ.

Đúng là thi sĩ và cả người đọc như đang tham gia thực sự vào câu chuyện, cùng nếm trải những phút “sướng lạ lùng”, đắc ý và cao hứng đến tột bực. Thi sĩ công khai nói về cái tài của mình:

- Văn dài hơi tốt ran cung mây!

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.

- Văn đã giàu thay, lại lắm lối

- Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

Văn trần dược thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!...

Thi sĩ đọc thơ không chỉ được trời khen mà cả chư tiên nghe cũng rất xúc động tán thưởng và hâm mộ:

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.

Nghe Trời hỏi họ tên quê quán, thi sĩ đã dành hẳn một khổ thơ (từ câu 65 đến câu 68) để tự xưng tên tuổi và thân thế của mình:

Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á châu về Địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt.

Thực ra trong thơ trung đại đã có nhiều trường hợp xưng danh: Hồ Xuân Hương: “Này của Xuân Hương mới quệt rồi” (Mời trầu); Nguyễn Du: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” (Đọc Tiểu Thanh kí) hay Nguyễn Công Trứ: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”...

Nhưng ở đây cung cách xưng danh của Tản Đà có khác. Thi sĩ cung khai lí lịch khá rõ ràng, rất hiện đại: đầy đủ cả bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh... một cách trịnh trọng.

Tản Đà chỉ kể như vậy. Nhưng qua lời kể, người đọc thấy được bao điều về cá tính và tâm hồn thi sĩ. Thi sĩ hơn ai hết rất ý thức về tài năng thơ của mình. Không những thế, ông còn táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã “cái tôi” đó với ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của thi sĩ. Ồng kiêu hãnh cung khai mình là đứa con của “Sông Đà, núi Tản, nước Nam Việt” trong hoàn cảnh đất nước đã mất chủ quyền. Cách nói của Tản Đà chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một tình cảm non nước quý giá biết bao.

Tản Đà cũng rất ngông khi tìm đến tận Thiên đình để khẳng định tài năng của mình, giá trị đích thực của mình giữa cuộc đời trước Ngọc Hoàng thượng đế và chư tiên. Trong tình cảnh “văn chương hạ giới rẻ như bèo” thân phận văn nhân bị rẻ rúng thì đó là niềm khao khát rất đỗi chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Vào thời điểm ấy, Thơ mới chưa xuất hiện thế mà Tản Đà đã lộ diện với tâm hồn lãng mạn độc đáo: ý thức về bản ngã, “cái tôi” cá tính ngông.

Giọng kể của tác giả đầy hóm hỉnh, có duyên mà cũng có phần ngông nghênh tự đắc, thái độ ngông nghênh tự đắc dường như đã được cố tình phóng đại có ý thức để gây được ấn tượng mãnh liệt đối với người đọc.

3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn. Tản Đà lãng mạn nhưng không thoát li hẳn cuộc đời. Thi sĩ vẫn ý thức về trách nhiệm với đời, vẫn khát khao được giúp đời nên đã nói đến nhiệm vụ truyền bá “thiên lương” mà trời giao cho mình.

Thế nhưng cuộc đời, nói cụ thể hơn là cái xã hội thực dân nửa phong kiến ấy đã đối xử với ông, người nghệ sĩ tài hoa và với nhiều nhà văn tài hoa khác ra sao?

Một bức tranh rất đỗi chân thực đã được Tản Đà vẽ lên tiếp đó:

Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều

Vốn liếng còn một bụng văn đó.

Giấy người mực người thuê người in

Mướn cửa hàng người bán phường phố.

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.

Lo ăn lo mặc hết ngày tháng

Học ngày một kém tuổi ngày cao

Sức trong non yếu ngoài chen rấp

Một cây che chống bốn năm chiều...

Cuộc đời của Tản Đà và những nghệ sĩ tài hoa khác thời bấy giờ đều cơ cực và tủi hổ thế đó: Không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng làm chẳng đủ ăn lại còn bị o ép nhiều chiều. Tài hoa rất mực như thi sĩ của chúng ta vậy mà cả đời vẫn sống trong cảnh nghèo khổ cùng quẫn:

Hôm qua chửa có tiền nhà

Suốt đêm thơ chẳng nghĩ ra câu nào

Đi ra rồi lại đi vào

Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ.

Ai chẳng nhớ những năm cuối đời, thi sĩ thường phải mở cửa xem tướng số để kiếm sống, nhưng cũng ế khách, mở lớp dạy chữ Hán, chữ Việt thì không có học trò. Rốt cuộc, khi từ giã cõi đời, ông vẫn nghèo đói: nhà cửa bị chủ nợ tịch biên chỉ còn sót lại một cái giường mọt, một cái ghế ba chân, một chồng sách nát và be rượu. Thì ra, vì hiện thực đó mà thi sĩ Tản Đà thấy đời đáng chán. Không chỉ muốn làm thằng Cuội để được lên chơi với chị Hằng Nga, mà ông còn tìm đến cõi tri âm ở tận trời cao với chư tiên và Ngọc Hoàng Thượng đế đọc thơ trong buổi hầu Trời.

4. Về mặt nghệ thuật, bài thơ Hầu Trời của Tản Đà có ít nhiều dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại:

Trước tiên là về thể loại, tác giả không dùng các thề loại phố biến cũ như thất ngôn bát cú, tứ tuyệt, lục bát hay song thất lục bát mà dùng thể thất ngôn trường thiên - một thể khá tự do, khồng bị ràng buộc bởi một khuôn thước kết câu nào. Vì vậy, nguồn cảm xúc của tác giả được bộc lộ một cách thoải mái, phóng túng và tự do.

Về ngôn ngữ, bài thơ có ngôn ngữ gần với ngôn ngữ đời thường, ít cách điệu, ước lệ mà tinh tế chọn lọc và gợi cảm.

Cách kể chuyện đầy tính chất bình dân giọng khôi hài, hóm hỉnh, có duyên, hấp dẫn, gây ấn tượng đối với người đọc. Trong bài thơ, tác giả vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính với cảm xúc biểu hiện phóng túng, với thái độ hào hứng trước một đối tượng nghe chuyện (giả định) đồng đẳng rất mực thân tình, không hề gò bó, gượng ép. Đúng là thi sĩ Tản Đà đã tìm được hướng đi đúng đắn để tự khẳng định mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang đi dần vào dấu chấm dứt.

LUYỆN TẬP

Bài tập 1

Học sinh tự lựa chọn ý tưởng hoặc câu thơ mà mình thích thú nhất và sau đó viết một đoạn văn để trình bày cảm xúc của mình.

Bài tập 2

Để làm bài tập này, các bạn có thể tham khảo:

Khái niệm “ngông” trong nghiên cứu văn học thường được dùng để chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường của những nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. Tất nhiên, ý thức cá nhân ấy cũng chỉ được phát triển mạnh mẽ trong những điều kiện xã hội nhất định, gắn liền với tổng thể những quan niệm khá mới mẻ (trong khuôn khổ thời trung đại) về vũ trụ, nhân sinh và nghệ thuật. Tản Đà không phải là một trường hợp “ngông” cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... đều “ngông”. Tuy nhiên, cái “ngông” của Tản Đà vẫn có những điểm đặc thù do sự quy định của thời đại.

Trong bài Hầu Trời, cái “ngông” của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật:

- Tự cho mình “văn hay” đến mức Trời cũng phải tán thưởng.

- Không thấy có ai đáng là kẻ tri âm với mình.

- Xem mình là một “trích tiên” bị “đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

- Nhận mình là người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả (thực hành “thiên lương”).

Ngoài ra, nguyên việc nhà thơ bịa ra chuyện “hầu Trời”, nói như thể đó là chuyện thật đã hàm chứa một sự khiêu khích nhất định đốì với cái nhìn tôn ti, đẳng cấp đang thống trị xã hội lúc ấy. Đó là chưa kể việc Tản Đà “dám” hình dung các đấng siêu nhiên như những đối tượng rất đỗi bình dân, thậm chí ngang hàng với mình.

Cái “ngông” của Tản Đà có nhiều điểm gặp lại cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ (thể hiện qua Bài ca ngất ngưởng): ý thức rất cao về tài năng của bản thân; dám nói giọng bông lơn về những đốì tượng như Trời, Tiên, Bụt; dám phô bày toàn bộ con người “vượt ngoài khuôn khổ” của mình trước thiên hạ, như muốn “giỡn mặt” thiên hạ.

Nói về điểm khác giữa hai người, có thể thấy: “ngông” ở Tản Đà là cái “ngông” của kẻ tuy không phải sống vô trách nhiệm với xã hội nhưng không còn xem vấn đề “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung” (Nguyễn Công Trứ) là chuyện hệ trọng nữa. Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe về cơ bản là cái tài thuộc phạm trù văn chương. Rõ ràng ở đây nhà thơ đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm (mà thông thường các nhà nho vẫn đặt trên vai mình) để sống thoải mái hơn với cái tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.

(Trích Ngữ văn 11 nâng cao - Sách giáo viên)

Viết bình luận