Soạn bài: Bài 9 - Lục Vân Tiên gặp nạn (trích Truyện Lục Vân Tiên)

I. VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH   

Đoạn này trích ở khoảng giữa Truyện Lục Vân Tiên. Nghe tin mẹ mất, Vân Tiên bỏ thi trở về chịu tang cùng với tiểu đồng. Quá đau đớn chàng nhuốm bệnh bị mù. Thi xong, trên đường về, Trịnh Hâm gặp lại thầy trò Vân Tiên. Tên phản bạn này dụ trói tiểu đồng ngồi gốc cây trong rừng. Sau đó, hắn xô Vân Tiên xuống nước lại còn giả bộ kêu trời.

II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

1) Ý chính của đoạn thơ này là sự đối nghịch của thiện và ác. Tám câu đầu là hành động tội ác tàn bạo thể hiện tâm địa độc ác của Trịnh Hâm đối với bạn mình là Lục Vân Tiên. Đoạn sau miêu tả việc làm nhân đức của ông Ngư cùng gia đình vớt Lục Vân Tiên và chạy chữa cho chàng và miêu tả cuộc sống lao động trong sạch và nhân cách cao cả đáng kính phục của ông Ngư.

2) Hành động tội ác của Trịnh Hâm

Tám câu đầu

Phần đầu đoạn thơ chỉ với câu ngắn gọn tác giả đã nói rõ được tâm địa độc ác của Trịnh Hâm. Trước đó, hắn đã lừa trói tiểu đồng vào gốc cây trong rừng. Trước cảnh mù lòa của Lục Vân Tiên, hắn đã chẳng chút động lòng. Từng gặp gỡ “trà rượu” với nhau khi vừa tới trường thi. Giờ đây gặp lại bạn, mặc dù Vân Tiên hết lời nhờ cậy: Tình trước ngãi sau. Có thương xin khá giúp nhau phen này và chính hắn cũng khẳng định: Đương cơn hoạn nạn gặp nhau. Người lành nỡ bỏ người đau sao đành, nhưng kẻ xấu xa độc ác này đã nuốt lời. Hắn đúng là kẻ bất nhân, bội nghĩa.

Hơn thế nữa, Trịnh Hâm là kẻ xảo trá và quỷ quyệt. Hành động tội ác của hắn hoàn toàn không phải vô tình mà có âm mưu sắp đặt khá tinh vi. Đưa Lục Vân Tiên xuống thuyền, Hâm hứa sẽ đưa về đến nhà, đợi khi đêm tối, thuyền ra đến giữa vời vắng vẻ, hắn xô Vân Tiên xuống sông rồi lại giả tiếng kêu trời nhằm đánh lừa mọi người, che giấu tội ác của mình. Trịnh Hâm là con người tiêu biểu cho cái ác của xã hội lúc đó.

Động cơ gây tội ác của kẻ nhẫn tâm thâm độc này là gì? Chẳng quen biết, thù hằn từ trước, chỉ gặp gỡ nhau trên đường đi thi, trong lần uống rượu làm thơ trong quán nhưng chỉ vì thấy Vân Tiên đức cao tài giỏi, Trịnh Hâm đã ra mặt ganh ghét đố kị:

Kiệm Hâm là đứa so đo

Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng

Khoa này Tiên ắt đầu công

Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi!

Chỉ vì dục vọng thấp hèn mà hắn trở nên tàn bạo gớm ghê. Nhưng cái ác hiện hình đó không hề làm mất lòng tin ở con người của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Bằng chứng là phần chủ yếu của đoạn trích này, nhà thơ đã miêu tả và ca ngợi tấm lòng nhân hậu và cao thượng rất đỗi chân tình của ông Ngư khi cứu vớt và tận tâm chăm sóc Lục Vân Tiên.

3) Hình ảnh ông Ngư (Phần còn lại)

Nhân vật chính ở phần này là ông Ngư. Hình ảnh ông và gia đình ông thật đẹp, đẹp từ việc làm đến quan niệm sống. Thấy người bị nạn, ông vớt lên ngay và hối gia đình cùng sưởi ấm để cứu mạng cho nạn nhân:

“...Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.

Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”.

Các câu thơ bình dị tự nhiên trên không những kể lại một hành động nhân nghĩa mà gợi tả được hết mối chân tình của cả gia đình ông Ngư đối với người bị nạn.

Cứu sống Vân Tiên xong, ông Ngư còn lưu giữ chàng ở lại gia đình mình. Ông sẵn lòng đùm bọc kẻ tật nguyền không chốn dựa nương dù chính ông cũng rất nghèo, gia tài chỉ có một con thuyền lênh đênh trên sông nước. Ông Ngư cũng chẳng hề tính toán đến cái ơn cứu mạng mà Vân Tiên không lấy gì báo đáp:

“Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn?”"

Lời nói rất ý nghĩa này của ông Ngư làm ta nhớ lại lời nói của Vân Tiên với Nguyệt Nga ở bài trước “làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Và nữa, ông Tiều sau khi cứu Vân Tiên ra khỏi hang Thương Tòng cũng đã đáp lời tạ ân của chàng trai: “Làm ơn mà lại trông người hay sao!”

Không chỉ việc làm, quan niệm sống và cả phong cách sống, cuộc sống của ông Ngư cũng rất đẹp: tuy nghèo mà rất đỗi trong sạch chẳng màng chút lợi danh.

Ông sống thoải mái, ung dung và tự do kiếm sống bằng sức lao động của chính mình: Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.

Đó là một cuộc sống thanh cao rất mực, vui với bầu trời dài rộng, vui với gió trăng sông nước: “Một bầu trời đất vui thầm ai hay! Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng.”

Rất đẹp cả về hành động, quan niệm sống, và cuộc sống, ông Ngư tiêu biểu cho người lao động, cho đạo đức trong sáng và cao đẹp của nhân dân.

Tóm lại, qua đoạn trích này, ta thấy sự đối lập giữa cái thiện và cái ác. Thái độ tình cảm của tác giả ở đây rất rõ ràng: ông thương yêu hết lòng những con người có nhân cách cao thượng như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, ông Ngư, ông Tiều... Ông ghét cay ghét đắng những kẻ ác và những toan tính thấp hèn như bọn cướp, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm... Nhà thơ đã đặt hết lòng tin nơi nhân dân lao động, những người tuy nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha trọng nghĩa khinh tài.

4) Học sinh tự do lựa chọn và trình bày cảm nhận của mình. Tuy nhiên có thể thấy trong đoạn trích này ở đoạn cuối, lời của ông Ngư nói về cuộc sống của mình là hay hơn cả:

“Ngư rằng: “Lòng lão chẳng ma,

Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?

Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi ai sờn lòng đây.

Rày doi mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng.

Một mình thong thả làm ăn,

Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.

Nghêu ngao nay chích mai đầm,

Một bầu trời đất vui thầm ai hay.

Kinh luân đã sẵn trong tay,

Thung dung dưới thế vui say trong trời.

Thuyền nan một chiếc ở đời,

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”.

Đây là một đoạn thơ lời lẽ thanh thoát, ý tứ phóng khoáng mà sâu xa nhiều hình ảnh đẹp và gợi cảm. Một không gian cao rộng khoáng đạt mở ra với doi, vịnh, chích đầm, bầu trời đất, gió trăng,... Ở đây con người hòa nhập bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước gió trăng. Tác giả sử dụng rất nhiều từ để chỉ niềm vui thanh thản ấy: vui vầy thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say,... Cứ tưởng như cụ Đồ Chiểu đang nhập thân vào nhân vật để bộc lộ, khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình.

Ghi nhớ: Đoạn thơ trích nói lên sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn, đồng thời thể hiện thái độ tình cảm và lòng tin của tác giả đối với nhân dân lao động. Đây cũng là đoạn thơ giàu cảm xúc, khoáng đạt ngôn ngữ bình dị, dân dã.

♦ Gợi ý luyện tập

Trong kết cấu tình tiết của đoạn truyện có một yếu tố giống với kết cấu thông thường ở nhiều truyện cổ dân gian. Đó là “ hiền gặp lành”, người tốt, người ngay thường gặp nạn nhưng lại luôn được “quý nhân” cứu giúp, phù trợ. Kiểu kết cấu này còn được lặp lại ở một số tình tiết khác như Lục Vân Tiên bị Võ Công bỏ vào hang Thương Tòng rồi được Du thần đưa ra ngoài và ông Tiều cõng ra khỏi rừng. Qua kết cấu này, tác giả đã thể hiện triết lí nhân sinh “ hiền gặp lành”, niềm tin và ước mơ của nhân dân ta ngày xưa những con người bị áp bức thấp cổ bé họng giữa xã hội đầy bất công, áp bức.

Viết bình luận