Soạn bài: Bài 4 - Những câu hát than thân

ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Một số bài ca dao mà trong đó người nông dân thời xưa thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời, thân phận của mình:

-                               Con cò mà đi ăn đêm,

                Đậu pliải cành mềm lộn cổ xuống ao.

                Ông ơi, ông vớt tôi nao,

                Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.

                Có xáo thì xáo nước trong,

                Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

-                               Trời mưa

                Quả dưa vẹo vọ

                Con ốc nằm co

                Con tôm đánh đáo

                Con cò kiếm ăn.

-                             Con cò lặn lội bờ sông

                Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.

Sở dĩ người nông dân hay mượn hình ảnh con cò để nói về mình, vì:

- Con cò thường kiếm ăn nơi đồng ruộng, cho nên hình ảnh con cò thường gần gũi với người nông dân.

- Con cò cũng chịu khó, vất vả lặn lội kiếm sông. Nó có nhiều đặc điểm giông cuộc đời, phẩm chất của người nông dân.

2. Cuộc đời vất vả, lận đận của cò

Bài 1 nói về cuộc đời con cò quá khó nhọc, lao đao. Một mình phải lận đận giữa vùng nước non, “lên thác xuống ghềnh” gặp biết bao khó khăn trắc trở. Trớ trêu thay, cuộc sống lại nhiều ngang trái “bể đầy”, “ao cạn” đế rồi tấm thân nhỏ bé kia ngày thêm gầy gò, dù có cần cù chắt chiu thế nào đi nữa vẫn không kiếm đủ sông nổi. Sô' kiếp con cò sao mà gieo neo, cay đắng đáng thương!

Con cò trong bài ca dao là biểu tượng chân xác và xúc động cho hình ảnh và cuộc đời người nông dân trong xã hội cũ. Ngoài nội dung than thân, bài ca dao này còn có nội dung phản kháng, tô' cáo chê' độ phong kiến trước đây. Đó là một xã hội đầy ngang trái, người nông dân bị áp bức bóc lột. Thân phận người dân thật là nhỏ bé, cơ cực.

3. Nội dung bài 2 là lời của người lao động tỏ sự đồng cảm đốii với những người cùng khổ. ‘Thương thay” là tiếng than biểu hiện sự thương cảm, xót xa.

- Từ “thương thay” được lặp lại bôn lần tạo cho nó sắc thái ý nghĩa sau:

- Mỗi lần lặp lại là một nỗi xót thương đối với những người lao động nghèo khổ, trong đó, cũng là lời than vãn cho thân phận mình. Mỗi lần lặp lại “thương thay” dường như nỗi xót thương ây thêm thâm sâu tận đáy lòng.

- Sự lặp lại từ này nhiều lần còn bao hàm ý nghĩa rộng hơn - Nỗi xót thương cho tất cả những người dân thấp cổ bé họng phải chịu nhiều oan ức.

4. Phân tích những nỗi thương thân của người lao động qua các hình ảnh ẩn dụ trong bài 2.

Trong ca dao, tác giả dân gian thường mượn hình ảnh các con vật như một phương tiện để than thở về mình. Qua đó, cũng cho thấy sự đồng cảm sâu sắc của người lao động đối với các con vật đã gắn bó với họ, vì cuộc đời của họ có khác gì cuộc sống của chúng.

Quanh năm suốt tháng người lao động luôn cơ cực nhưng luôn bị bòn rút sức lực chẳng khác chi con tằm phải nằm nhả tơ cho bọn áp bức bóc lột. Vì thế, suốt đời họ dù phải cần cù chăm chỉ như con kiến đi tìm mồi mà vẫn thiếu ăn. Cho nên, dù người nông dân có cố gắng như con hạc “lánh đường mây” nhưng cuộc sống vẫn cứ phiêu bạt, lận đận và vô vọng. Những oan trái trên, với thân phận thấp cổ bé họng, người lao động trong xã hội cũ “Dầu kêu ra máu có người nào nghe”, không có một lẽ công bằng nào soi tỏ cho họ.

Tất cả những nỗi thương thân và than thân đó được gửi gắm qua những hình ảnh ẩn dụ thật tài tình, cộng với lô'i thơ lục bát mượt mà, ngọt ngào khiến ta thâm được nỗi khố nhiều bề của dân ta ngày trước và đã làm nhức nhối lòng ta mãi đến giờ.

5. Một số bài ca dao mở đầu bằng cụm từ “Thân em”

-                 Thân em như hạt mưa sa,

                Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

-                 Thân em như giếng giữa đàng,

                Người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân.

-                  Thân em như tấm lụa dào,

                Phất phơ giữa chạ biết vào tay ai?

Những bài ca dao thuộc chủ đề than thân, mở đầu bằng cụm từ “Thân em...” thường nói về thân phận, nỗi khổ đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nỗi khổ lớn nhất là số phận bị phụ thuộc, không được quyền tự quyết định.

Những bài ca dao trên thường giông nhau về mặt nghệ thuật: đều mở đầu bằng cụm từ “Thân em...”, đều dùng biện pháp so sánh để miêu tả thân phận và nỗi khố của người phụ nữ.

6. Bài 3 nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến: “Thân em như trái bần trôi”. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần cũng như mù u, sầu riêng, thường gợi đến cuộc đời nghèo khổ, buồn đau, đắng cay. Hình ảnh so sánh được miêu tả bổ sung bằng các chi tiết “gió dập”, “sóng dồi”, “biết tấp vào dâu”. Các chi tiết ấy gợi lêh cuộc đời người phụ nữ quá nhỏ bé, số phận họ thật là lênh đênh, chìm nổi trong sự mông mênh của xã hội ngày xưa. Họ không mảy may có một quyền tự quyết nào về chính bản thân mình cả. Người phụ nữ là hiện thân của nỗi đau khổ ngày xưa.

LUYỆN TẬP

1. Nêu những đặc điểm chung về nội dung và nghệ thuật của ba bài ca dao.

- Về nội dung, cả ba bài là sự than thân và là sự đồng cảm với nỗi niềm, cuộc đời đau khổ, đắng cay của người nông dân, người phụ nữ. Ngoài ra, những câu hát này còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến.

- Về nghệ thuật, cả ba bài đã dùng các sự vật, con vật gần gũi, nhỏ bé đáng thương làm hình ảnh ẩn dụ, so sánh để diễn tả tâm trạng, thân phận con người. Cả ba đều sử dụng thể thơ lục bát và có âm điệu than thân thương cảm. Cả ba cũng đều có nhóm chữ “Thân em...” mang tính truyền thống, được sử dụng nhiều trong ca dao.

2. Học thuộc lòng các bài ca dao đã học.

Viết bình luận