Soạn bài: Bài 24 - Ý nghĩa văn chương

I. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Theo ông Hoài Thanh, nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương yêu con người và thương yêu muôn vật, muôn loài.

2. Hoài Thanh viết: “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống ...”

- Giải thích và chứng minh ý kiến trên: “Văn chương là hình dung của sự sống”: điều này có nghĩa là trong các tác phẩm văn học người ta luôn tìm thấy những hình ảnh của cuộc sống. Ví dụ đọc bài Vượt thác của Võ Quảng (trích trong tác phẩm Quê Nội) ta thấy rõ cảnh con người chèo chống, lèo lái con thuyền vượt thác ghềnh hiểm trở trên sông Thu Bồn ở tỉnh Quảng Nam. Hình ảnh dượng Hương Thư là hình ảnh rất thực về những con người chuyên sống bằng nghề sông nước ở vùng này và họ đã vô cùng dũng cảm, hiên ngang vượt lên sự thách thức của thiên nhiên.

Đọc bài thơ Lượm của Tố Hữu ta bắt gặp chú bé giao liên hồn nhiên, vui tươi nhanh nhẹn, yêu đời đã kiên cường vượt qua mặt trận đầy lửa đạn để làm nhiệm vụ và chú đã hi sinh giữa đồng lúa quê hương. Lượm chính là “hình dung của sự sống”. Lượm là nhân vật trong thơ tiêu biểu cho hàng trăm, hàng ngàn em bé liên lạc có thật trong cuộc kháng chiến chống Pháp của chúng ta.

Đọc đoạn thơ trích trong bài Thành phố Trường Sơn của Hữu Thỉnh ta cũng thấy rộn lên những hình ảnh của cuộc sống. Đó là cảnh sống của dân công, bộ đội, giao liên trên đường ra trận, tạm dừng lại ở bên dòng suối Đôi để nghỉ chân. Họ gọi đùa nơi này là thành phố:

Thành phố ban ngày như ngủ

Mà chiều buông lại tấp nập lạ thường

Chính nơi đây hội đủ mấy tuyến đường:

Đoàn dân công quai gùi căng trĩu

Cô giao liên nét cười ngượng nghịu

(Bắt tay người quen má cũng đỏ bừng)

Anh giải phóng quân hòm đạn nặng lưng...”

Ngoài ra, “văn chương còn sáng tạo ra sự sống”.

Nhà văn có vốn sống phong phú, có sự hiểu biết sâu sắc về xã hội, về con người, lại có trí tưởng tượng, sáng tạo nên đã tạo ra nhiều nhân vật nhiều cảnh đời trong tác phẩm. Những nhân vật, những cảnh đời này không giống hẳn một con người thực nào, một cảnh đời thực nào nhưng lại tập trung những nét tiêu biểu nhất của nhiều người thực của nhiều cảnh đời có thực. Do đó mà tác phẩm trở nên sâu sắc hơn, cô đọng hơn, điển hình hơn giúp cho người đọc hiểu rõ hiện thực cuộc sống hơn. Như vậy chính là tác phẩm đã sáng tạo ra sự sống.

Ta cũng có thể nói thêm về vấn đề này: ví dụ như Tô Hoài đã rất sáng tạo khi dựng nên cuộc sống của bao nhiêu con vật bé nhỏ quanh ta: con dế mèn, con dế trũi, con châu chấu, con cào cào, con bọ dừa... Xã hội của các con vật này cũng có nhiều nét giống với xã hội của con người. Đó cũng là một cách tạo ra sự sống trong tác phẩm văn chương.

3. Theo Hoài Thanh, công dụng của văn chương là: giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha như khi xem truyện, ngâm thơ ta có thể vui, buồn, mừng, giận với người trong truyện, trong thơ. Văn chương gây cho những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có. Văn chương còn giúp cho con người cảm nhận được sâu sắc cái hay, cái đẹp của cảnh tượng thiên nhiên.

4. Trả lời các câu hỏi:

a) Văn bản Ý nghĩa văn chương thuộc loại nghị luận văn chương.

b) Sự đặc sắc của bài viết Ý nghĩa văn chương là: vừa có lí lẽ vừa có cảm xúc và hình ảnh.

Dẫn chứng: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”.

Ghi nhớ:

Với một lối văn nghị luận vừa có lí lẽ, vừa có cảm xúc và hình ảnh, Hoài Thanh khẳng định: nguồn gốc cốt yếu của văn chương là tình cảm, là lòng vị tha. Văn chương là hình ảnh của sự sống muôn hình vạn trạng và sáng tạo ra sự sống, gây những tình cảm không có, luyện những tình cảm sẵn có. Đời sống tinh thần của nhân loại nếu thiếu văn chương thì sẽ rất nghèo nàn.

LUYỆN TẬP

Hoài Thanh viết: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”.

Giải thích và chứng minh:

Con người nói chung là có sẵn những tình cảm thông thường như yêu, ghét, vui, buồn, giận... Văn chương sẽ “luyện” cho, sẽ giúp cho những tình cảm này thêm sâu sắc hơn.
Ví dụ ai chẳng có lòng yêu quê hương của mình nhưng có khi lòng yêu quê hương đó chỉ lờ mờ không rõ nét. Nhưng nếu ta đọc bài thơ Quê hương của Đỗ Trung Quân ta bỗng nhận ra tình yêu quê hương là những điều rất cụ thể: yêu chùm khế ngọt, yêu con đường đi học có bướm vàng bay, yêu con diều biếc, yêu con đò nhỏ, yêu đêm trăng có hoa cau rụng trắng thềm, yêu tiếng ếch đêm mưa, yêu bàn tay mẹ hái lá mồng tơi nấu nồi cành ngọt, yêu dòng sữa mẹ thuở sơ sinh...

Do đó tình yêu quê hương trở nên tha thiết hơn, đằm thắm gắn bó hơn.

Ngoài những tình cảm thông thường ai cũng có, còn những tình cảm đặc biệt khác lạ mà có thể ta chưa có. Văn chương sẽ bổ sung cho ta những cảm giác mới mẻ đó. Ví dụ như một người chưa đi sông, vượt thác bao giờ nhưng khi đọc đoạn văn sau đây cũng sẽ thấy mình như đang "nhập cuộc":

“Ba chiếc sào bằng tre bịt đầu sắt đã sẵn sàng. Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn. Dượng Hương Thư đánh trần đứng sau lái co người phóng chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng “soạc”! Thép đã cắm vào sỏi! Dượng Hương Thư ghì chặt trên đầu sào, lấy thế trụ lại, giúp cho chú Hai và thằng Cù lao phóng sào xuống nựớc. Chiếc sào của Dượng Hương dưới sức chóng bị cong lại. Nước bị cản văng bọt tứ tung, thuyền vùng vằng cứ chực trụt xuống, quay đầu chạy về Hòa Phước.

Những động tác thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt. Thuyền cố lấn lên. Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc: các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ. Anh bỗng có tình cảm khâm phục và tự hào về sức mạnh của những con người dũng cảm”.

Kết quả cần đạt

  • Hiểu được quan niệm của Hoài Thanh về nguồn gốc, nhiệm vụ, công dụng của văn chương trong lịch sử của nhân loại.
  • Nắm được cách chuyển câu chủ động thành câu bị động.
  • Luyện tập viết đoạn chứng minh.

Viết bình luận