Soạn bài: Bài 21 - Sự giàu đẹp của tiếng Việt

I. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

1. Bố cục: Gồm ba phần:

- Phần mở bài (Nêu vấn đề): Từ đầu cho đến "... đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử”.

Ý chính: Người Việt Nam có thể tự hào và tin tưởng vào tiếng Việt, một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay.

- Phần thân bài (Chứng minh vấn đề): Từ chỗ “Tiếng Việt, trong cấu tạo của nó...” cho đến “...mọi mặt kinh tế, chính trị, khoa học, kĩ thuật, văn nghệ...”

Ý chính: Tiếng Việt đẹp và hay về các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và ngày càng phát triển để thỏa mãn mọi yêu cầu của xã hội.

- Phần kết luận (Kết thúc vấn đề): Câu cuối của bài.

Ý chính: Khẳng định sức sống của tiếng Việt.

2. Nhận định “Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay” đã được giải thích cụ thể trong đoạn đầu bài văn này như sau:

- Tiếng Việt hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu.

- Tiếng Việt rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu.

- Tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam.

3. Tác giả đã chứng minh cho vẻ đẹp của tiếng Việt với nhiều chứng cứ được sắp xếp như sau:

+ Nêu một số ý kiến của người nước ngoài:

- Người nước ngoài tuy chưa hiểu tiếng ta, nhưng nghe người Việt Nam nói họ đã thấy tiếng Việt rất giàu nhạc tính.

- Một giáo sư nước ngoài nhận định rằng tiếng Việt đẹp và rất rành mạch trong lời nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ.

+ Phân tích đặc điểm của tiếng Việt để chứng minh:

- Tiếng Việt gồm hệ thống nguyên âm và phụ âm khá phong phú.

- Tiếng Việt giàu về thanh điệu, giàu hình tượng ngữ âm như âm giai trong âm nhạc.

4. Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được thể hiện ở những phương diện sau:

- Từ vựng tiếng Việt luôn được bổ sung ngày càng nhiều thêm để biểu hiện các khái niệm mới.

- Ngữ pháp cũng ngày càng phát triển uyển chuyển hơn, chính xác hơn.

- Tiếng Việt có khả năng thỏa mãn mọi yêu cầu của đời sống văn hóa ngày càng phức tạp hơn về mọi mặt kinh tế, chính trị, khoa học, kĩ thuật, văn nghệ...

Sau đây là một số dẫn chứng để làm rõ thêm các nhận định của tác giả:

Ví dụ về mặt từ vựng, tiếng Việt đã Việt hóa nhiều từ Hán để sử dụng trong việc viết các văn bản hoặc trong giao tiếp hàng ngày. Các từ độc lập, tự do, hạnh phúc, học tập, công tác, bố trí, phân công, lãnh đạo, cán bộ, điều hành, hiệu trưởng, học sinh, giáo viên, giám thị, giám khảo, lưu bút, kỉ niệm, kí ức, khoa học, mĩ nghệ, văn bản, nghị luận... đã trở nên quá quen thuộc và thông dụng đối với người Việt Nam. Nhiều thứ tiếng nước ngoài khác cũng đã trở thành tiếng Việt như: Xô viết, xà bông, ô tô, ti vi, mít tinh, cà vạt, (áo) sơ mi, (khăn) mùi soa, xa lông, com pa...

5. Điểm nổi bật trong nghệ thuật nghị luận ở bài văn này là: Với lối văn thật trong sáng, mạch lạc, tác giả đã đưa ra những lí lẽ chặt chẽ kèm theo các dẫn chứng xác đáng để chứng minh sự giàu đẹp của tiếng Việt về các mặt: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp tạo nên một sức thuyết phục cao.

Ghi nhớ:

Bằng những lí lẽ, chứng cứ chặt chẽ và toàn diện, bài văn đã chứng minh sự giàu có và đẹp đẽ của tiếng Việt trên nhiều phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tiếng Việt, với những phẩm chất bền vững và giàu khả năng sáng tạo trong quá trình phát triển lâu dài của nó, là một biểu hiện hùng hồn sức sống của dân tộc.

II. LUYỆN TẬP

1. Việc sưu tầm các em tự làm.

2. Năm dẫn chứng thể hiện Sự giàu đẹp về ngữ âm và từ vựng trong các bài văn thơ đã học, đã đọc:

“Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây, hết bụi. Mặt trời như lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh”.

(Trích bài “Cô Tô” của Nguyễn Tuân)

“Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ

Mùi hoa thiên lí thoảng chiều thu

Con cò bay lả trong câu hát

Giấc trẻ say dài nhịp võng ru...

 

Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non

Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con

Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín

Điểm nhạt da trời những chấm son...”

(Trích bài “Chiều thu” của Nguyễn Bính)

“Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng. Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận...”.

(Trích bài “Sông nước Cà Mau” của Đoàn Giỏi)

“Mỗi lần có dịp đứng trên cầu Long Biên, tôi lại say mê ngắm nhìn màu xanh bãi mía, nương dâu, bãi ngô, vườn chuối phía Gia Lâm không bao giờ chán mắt. Cái màu xanh cần lao ấy gợi bao yêu thương và yên tĩnh trong tâm hồn. Khi chiều xuống, nhìn về phía Hà Nội thấy những ánh đèn mọc lên như sao sa, gợi lên bao quyến rũ khát khao... Rồi những ngày nước lên cao, gần mấp mé thân cầu. Đứng trên cầu, nhìn dòng sông Hồng đỏ rực nước cuồn cuộn chảy với sức mạnh không gì ngăn nổi, nhấn chìm bao màu xanh thân thương, bao làng mạc trù phú đôi bờ, tôi cảm thấy chiếc cầu như chiếc võng đung đưa, nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc”.

(Trích bài “Cầu Long Biên - chứng nhân lịch sử” của Thúy Lan)

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi

Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau

Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi

Cái cuốc con dao đánh lừa cái tuổi

Chén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đau

Con nộm nang tre đánh lừa cái chết

Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu

Đánh lừa thuồng luồng xăm mình, xăm mặt

Đánh lừa thằng giặc là truyện Trạng Quỳnh

Nhưng lạ lùng thay nhân dân thông minh

Không hề lừa ta dù ca dao, cổ tích...”

(Trích bài tha “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm)

Kết quả cần đạt

  • Hiểu được sự giàu đẹp của tiếng Việt qua sự phân tích, chứng minh trong bài nghị luận giàu sức thuyết phục của Đặng Thai Mai. Nắm được những điểm nổi bật trong nghệ thuật nghị luận của bài văn.
  • Nắm được các đặc điểm về nội dung và hình thức của trạng ngữ, nhận ra các loại trạng ngữ trong câu.
  • Nắm được mục đích, tính chất và các yếu tố của phép lập luận chứng minh.

Chú thích (thêm)

  • Tự hào: lấy làm hài lòng và hãnh diện về cái tốt đẹp mà mình có.
  • Xã giao: giao thiệp bình thường trong xã hội.
  • Nhân chứng: người làm chứng.
  • Phương diện: một mặt nào đó của vấn đề.

 

Viết bình luận